Friday, October 9, 2015

Đảo chìm- tiểu thuyết mini


Tác giả: Trần Đăng Khoa


  Xuanduc.vn : Bạn đọc của TST thân mến ! Cuối cùng thì TST cũng đã có được " giấy phép" xuất bản của nhà thơ TĐK để đưa Đảo chìm lên trang làm quà tết cho khách bạn. Tác giả vì quý trọng bạn đọc của TST nên không chỉ cho phép bổn web được in mà còn tự tay sửa lại chút xíu lời tác giả, lại còn thêm lá thư nhắn gửi bạn đọc trên Trúc Sơn Trang.Như vậy đủ thấy tấm lòng nhà thơ trân trọng đọc giả biết chừng nào.

Tuy nhiên TĐK cũng có 2 ý muốn thưa trước ( đã gọi điện thoại cho tôi). Một là yêu cầu tôi phải post một lèo, không được cắt khúc, chia đoạn. Khoa nói, Trường Sa là một dải nối liền không thể tách rời của tổ quốc. Ông mà cắt ra là mang tội với đồng bào đấy. Tôi nói hiểu rồi, dưng mà đồng bào lại đang trong cơn suy thoái kinh tế toàn cầu, miền trung lại đang vật lộn với thiên tai vất vả lắm, lại thêm sắp sửa đón tết Kỉ Sửu nữa rất chi là nhiều việc, bắt bà con đọc một lèo như vậy có...quá tải không ? Nhà thơ nạt: tôi bảo ông đăng một lèo chứ có đề nghị mọi người đọc một mạch đâu. Hiểu rồi. Như vậy đồng bào đồng chí đừng có ngợp nhé, cứ từ từ mà thưởng thức, đọc cho qua tết âm, lại ra giêng tháng rộng ngày dài, coi như là lương khô đề phòng lũ lụt thiên tai vậy. Điều thứ hai, TĐK cũng thở vắn than dài là không đủ thời gian để đọc lại bản vi tính chủa Thu Hà. Vì vậy, nếu có sai thì sẽ sửa sau, mong bà con thông cảm.Một lần nữa, bổn web xin cảm ơn tác giả và bạn đọc trẻ Thu Hà đã có lòng và có công giúp cho bạn đọc TST được một phen no đủ.
Thư nhắn của TĐk gửi bạn đọc TST
Nhà văn Xuân Đức đã nhiều lần nhắn tôi chuyển "Đảo chìm" cho anh, nhất
là trong những ngày này, khi Trường Sa trở thành một tâm điểm chú ý
của các cơ quan truyền thông trong nước và quốc tế. Nhưng cuối năm,
công việc quá bộn bề, tôi không làm nổi một việc rất đơn giản, là lục
lại các tập bản thảo cũ. Rất cám ơn bạn bè TST đã quan tâm đến Trường
Sa, quan tâm đến cuốn sách nhỏ của tôi. Thay mặt cho bác Thuận, Chính
trị viên, năm nay đã 64 tuổi, rồi Tư Xồm, Huy, và những người lính đã
khuất: Nguyễn Văn Thiêm, Trần Văn Hai..., tôi xin cảm tạ các quý vị,
đặc biệt cô bé Đặng Hoàng Thu Hà đã vi tính giúp nhà văn Xuân Đức để
đưa Đảo chìm đến với các bạn. Chúc các bạn hạnh phúc và luôn gặp những
điều tốt lành. TĐK

--
Trần Đăng Khoa
VOVTV - 43 Bà Triệu - Hà Nội
            0913533260


Lời tác giả

Các bạn thân mến!
          Tôi muốn đưa các bạn đi chu du một vòng ra hải đảo. Hòn đảo xa lắc ấy nằm trong quần đảo Trường Sa. Vậy Trường Sa là gì? Trường Sa ở đâu? Nếu tôi đọc số kinh tuyến, vĩ tuyến nơi vị trí của hòn đảo thì chắc các bạn cũng khó mà hình dung được, vì nó trìu tượng quá, mung lung quá. Các bạn hãy nhìn lên bản đồ. Tổ quốc Việt Nam thân yêu của chúng ta trên bản đồ thế giới trông giống như một bà mẹ già gày gò đội nón lá, lưng còng gập có lẽ vì phải gánh quá nhiều sứ mệnh lịch sử. Bà mẹ  đáng thương ấy vẫn còn lặn lội thân cò, bước thập thững bên bờ sóng. Tấm lưng còng gập quay ra đại dương. Cái phên dậu giữ cho tấm lưng còng ấy khỏi lạnh chính là Trường Sa đấy.
          Trường Sa, nói theo chữ của các cụ ta xưa thì nó là một dải cát dài. Nhưng cái hòn đảo tôi dẫn các bạn tới còn chưa có cả cát nữa kia. Nó mới đang là một vùng san hô ngầm còn chìm sâu dưới nước ba mét. Các chàng  lính trẻ của chúng ta đã dựng chòi giữa sóng gió hoang vu để canh giữ, bảo vệ.
          Nhiều đêm ngồi trên cái chòi bạt này, giữa một bầu mây nước hỗn mang, tôi cứ ngỡ mình đang ở thời tiền sử, đang chứng kiến cái giây phút sinh thành của trái đất. Hòn đảo vẫn réo gầm dưới sóng. Nó như đang quẫy đạp, đang dãy dụa, muốn xé toang cái bầu nước âm u vây bọc kia để ra đời. Nhưng theo cách tính toán của các nhà khoa học, thì phải hơn một trăm năm nữa, nó mới nhô lên kia. Còn bây giờ, nó mới đang còn là một cái bào thai, hay nói cách khác, nó là một mô hình Tốt đẹp. Nhưng tốt đẹp như thế nào thì chịu, không thể hình dung được, vì tất cả vẫn còn đang chìm lặn trong sóng gió hỗn mang. Bao nhiêu thế hệ thay nhau bảo vệ cái mô hình tốt đẹp ấy. Nhưng đó là chuyện có ở tương lai. Còn hiện tại, chưa có gì cả. Một bầu mây nước âm u, hoang dã. Vậy mà bao nhiêu kẻ đã nhòm ngó, rình rập, tranh chấp. Máu đã đổ ở Trường Sa rồi đấy.
          Nếu bây giờ, các bạn có dịp đặt chân thực sự lên hòn đảo huyền thoại ấy các bạn sẽ thấy hòn đảo khác rất nhiều với những gì tôi kể. Một căn nhà vững chãi như lô cốt hai tầng bằng bê tông cốt thép đã được dựng lên. Bên cạnh cái "lô cốt" sừng sững như một pháo đài này, Bộ tư lệnh Hải Quân vẫn giữ lại cái lều bạt hoang sơ mà những người lính biển chúng tôi đã ở, như một bảo tàng giữa trời nước, lưu giữ dấu ấn của những ngày gian khổ chưa xa. Nhưng dù chúng ta có nâng nưu gìn giữ thế nào thì sắt thép cũng sẽ bị hoen rỉ trong nước mặn. Mọi sự việc dù cảm động đến đâu rồi cũng phai mờ qua những biến động của thời gian. Tôi nghĩ thế và tôi đã lẩn mẩn ghi lại tất cả những gì mình thấy, làm một cái bảo tàng nho nhỏ cho bạn đọc,  những người đến sau, không được thấy những gì tôi thấy.       Nào, các bạn hãy cùng tôi ngược thời gian, trở lại những ngày gian khổ đó  nhé!
                                               Trần Đăng Khoa

Đảo chìm 
Chuơng I
Vị tướng  già
và  chàng  lính  trẻ

Gọi tiểu thuyết mi ni, nhưng đây lại là truyện thật mà tôi không hề hư cấu, bịa đặt. Chuyện xảy ra ở Đảo Chìm. Nhưng trước khi đến xứ Đảo Chìm, tôi muốn mời bạn đọc ghé qua một hòn đảo nổi. Lính Đảo Chìm gọi là Thủ đô Trường SaThủ đô Trường Sa là một hòn đảo rất bé. Nó bé tới mức, người đời khó mà tưởng tượng được. Đến nỗi, một nhà thơ đã phải thốt lên: "Đảo nhỏ quá, nói một câu là hết"(*).
Tôi đã tới cái hòn đảo "Nói một chữ là hết" ấy. Nó chỉ là một vũng cát lờ phờ, to chừng một cái nong phơi thóc, vừa đủ chỗ để dựng một cái lều bạt dã chiến. Tư lệnh Hải quân Giáp Văn Cương cũng đã đến đây, đã ngủ một đêm trên hòn đảo này trong một chuyến đi tuần biển.
- Vất vả không, các cậu?
Tư lệnh hỏi một cậu lính trẻ, tóc đỏ quạch như tôm luộc, da đen cháy, người chắc nịch như một thỏi sắt đã tôi qua lửa. Cậu lính trẻ cười khì khì:
- Báo cáo bố, cũng tàm tạm thôi ạ!
- ở đây thì mọi thứ đều thiếu thốn rồi. - Giọng Tư lệnh bùi ngùi - Nhưng cái gì cần nhất, cấp thiết nhất, các cậu cứ nói thẳng với mình. Bộ tư lệnh sẽ tạo mọi điều kiện giúp đỡ các cậu.
- Thế bố cho con được nói thật nhé!
- Ừ, thì phải nói thật chứ! - Tư lệnh mỉm cười. - Chả lẽ tớ già thế này, còn lặn lội vượt sóng gió ra đây với các cậu, để rồi rốt cuộc, lại nghe các cậu nói dối à?
- Nhưng bố không được phê phán con lãng mạn cơ...
- Cái thằng! Tao còn lãng mạn hơn mày ấy!
Anh lính trẻ nhìn mái đầu bạc trắng của Tư lệnh, cười hồn nhiên:
- Thế thì, con đề nghị bố thế này nhé! Bận sau, nếu bố ra đảo, bố chịu khó giắt lưng cho chúng con vài cô gái...
Anh lính trẻ bỗng bối rối trước cái nhìn ngỡ ngàng của Tư lệnh. "Thì con đã vòi bố trước rồi, là bố phải tha thứ cho con, không được phê phán con lãng mạn".
- Chúng mày muốn nghe hát hả? Muốn xem văn công hả?
- Không, không! - Anh lính bỗng luống cuống. - Con đâu dám có voi đòi tiên! Văn công xem ra xa vời quá! Chúng con chỉ muốn bố mang ra đây vài cô nuôi quân thôi! Các cô ấy chẳng phải hát hò gì. Chỉ mặc tấm áo phin trắng, cái quần lụa đen, đi phơ phất trên đảo, để chúng con ngắm, chúng con "chỉnh" mắt. Chứ mắt mũi chúng con, bố thấy đấy, sang vành hết cả rồi!..
Tư lệnh cười ha hả. Anh lính trẻ cũng cười. Chưa bao giờ tôi được nghe cuộc đối thoại kỳ lạ như thế. Sau đó, quả như niềm ao ước của anh lính trẻ, các cô gái lần lượt ra thăm đảo. Không phải cánh nuôi quân mà các cô văn công mặt hoa da phấn hẳn hoi. Trông cô nào cũng đẹp, cũng thơm phức và lộng lẫy như những nàng tiên cá. Các cô múa hát và khâu vá cho chiến sĩ. Nhiều anh áo quần còn mới nguyên, cũng bí mật xé ra, rồi nhờ các cô vá. Thế là từ đấy, lần nào Tư lệnh ra đảo, các chiến sĩ cũng được dự những bữa tiệc mắt linh đình. Nhưng đó là chuyện sau này, còn chiều ấy, ngồi bên Tư lệnh trên mặt cát nóng bỏng như rang, mặc dù mặt trời đã lặn xuống biển lâu rồi, anh lính trẻ quê xứ Nghệ thực sự coi Tư lệnh như một người đồng đội thân thiết. Anh lắc lắc đầu gối Tư lệnh:
- Bố thấy Vuơng quốc của chúng con thế nào?
Tư lệnh đưa mắt nhìn suốt rẻo cát trống trơn, rồi lại nhìn cái lều bạt dã chiến cứ hộc lên trong gió tựa hồ một con ngựa bất kham, đang lồng lộn như muốn rứt tung mấy sợi xích sắt căng ghì xuống đảo mà phóng đi cùng bầy gió hoang dã.
- Đẹp, nền nếp. Đúng quân phong quân kỷ. ở đây mà giữ được như thế này là tốt lắm rồi. - Giọng Tư lệnh bỗng bùi ngùi. - Tất nhiên là vất vả! Chúng mày rất vất vả! Tao biết! Nhưng khổ nỗi đây lại là Tổ quốc, là đất đai hương hoả của ông cha, thì dù chỉ có đá sỏi gió cát thế này, ta cũng phải canh giữ, một tấc không đi, một ly không rời, dẫu có phải đổi bằng xương máu...
- Vâng, con hiểu! Con hiểu, bố ạ!
Tư lệnh ôm lấy đôi vai trần cháy khét nắng gió của người lính trẻ xứ Nghệ. Đôi mắt ông bỗng cay xè, ầng ậng nước. Anh lính trẻ cũng nắm chặt bàn tay xù xì thô ráp của Tư lệnh:
- Bố đừng lo! Chúng con ở đây quen rồi! Khổ mấy chúng con cũng chịu được! Nhưng đúng như bố nói đấy. Rất vất vả, cực nhọc. Nhiều lúc mệt quá, con liều nghĩ, hay là ta cứ tạm giấu quách đảo đi!
Tư lệnh ngạc nhiên:
- Giấu đảo à? Mày nói gì lạ thế? Giấu thế nào?
Anh lính trẻ vui vẻ:
- Bố cứ cho con mượn tạm cái xẻng. Chỉ ba tiếng là con giấu xong đảo thôi! Mà không đến ba tiếng đâu. Chỉ tiếng rưỡi đồng hồ là con xúc xong chỗ cát này cho xuống biển, đố kẻ thù nào nhìn thấy đảo, có muốn cướp đảo cũng chịu!
Tư lệnh cười vang, cười đến giàn giụa nước mắt. Rồi ông lóp nhóp đánh xuồng về tàu. Con tàu bấy giờ đang bập bềnh buông neo ngay bên ngoài mép san hô. Và thật bất ngờ, lát sau, ông trở lại với chiếc xẻng còn mới coóng.
- Đây! Xẻng đây! Không phải mượn đâu. Tớ tặng luôn cậu đấy để cậu giấu đảo!
Cứ tưởng anh lính trẻ sẽ lắc đầu quầy quậy. Nào ngờ anh vồ vập đón chiếc xẻng từ tay Tư lệnh. Và sáng sớm hôm sau, khi Tư lệnh đánh xuồng trở lại đảo thì thấy anh chàng đang cởi trần, sì sụp lặn ngụp cùng với chiếc xẻng của Tư lệnh. Nhưng anh không xúc cát đổ xuống biển, mà lấy cán xẻng khẽ bẩy từng tảng đá san hô chìm sâu dưới mấy mét nước, rồi lụi cụi khuân lên, đắp quanh chân đảo, giữ cho cát khỏi bay
- Mày làm cái gì thế mày? Giấu đảo à?
- Dạ, báo cáo bố, con mở mang bờ cõi ạ! - Anh lính cười khục khục, gương mặt nhấp nhoá nước. - Mà, mà, đúng ra, đúng ra con chỉ "buông neo" cho Tổ quốc khỏi bị trôi dạt thôi!

Chương II
             Hòn đảo kỳ lạ
            Cậu lính trẻ vỗ vai tôi, nói nhỏ:
- Tới đảo rồi. Anh chuẩn bị vào đảo nhé!
Tôi cuộn vội võng bạt. Rồi thì ớ ra, cứ ngỡ mình nghe nhầm. Nhưng con tàu đã quá quen sóng gió, luồng lạch biển cả này thì không thể nhầm được. Nó đang òng ọc buông neo. Sau lưng tôi, trên mặt boong ướt nhoẹt, ngổn ngang những xích sắt, thừng chão, mấy cậu lính trẻ đang nhí nhóp bơm cái xuồng cao- su. Tôi đưa mắt lục lọi bốn phía trời, vẫn chẳng thấy gì hết ngoài một đại dương nước đen ngầu, chảy vật vã dưới vòm mây hoang vu, khô héo. Đảo đâu?
Kia kìa. Nó đấy! Chính cu cậu đấy!
 Cậu lính nói khào khào, rồi vung tay, chỉ lên... lưng chừng giời. ở đó, một đàn chim bay loạn xạ. Những con chim đen kít, trông như những nắm giẻ rách mà một gã tàng hình quái quỷ nào đó, cứ nhắm tịt mắt, rồi ném loạn xạ lên thinh không. Dưới bầy chim, biển đen sẫm ánh lên một dải nước xanh ệnh như màu lá mạ. Trên quầng xanh rờn rợn ấy, xập xoè một lều bạt. Cái lều hoang sơ, ngơ ngẩn như lều vịt mà ông chủ đãng trí nào đó đã bỏ quên trên cánh đồng đang cày vỡ. Mái lều trũng xuống vì phân chim. Những vệt phân lâu ngày trắng xoá. Những vệt phân tươi nâu sậm, lác đác có cả những vệt đỏ nhờ, trang điểm cho mái lều một vẻ đẹp sặc sỡ đến quái đản. Đảo đấy! Nó là cái dải nước xanh phơn phớt nằm dưới chân lều bạt. Thế mà trong sách báo, cả sách khoa học, sách địa lý dành cho giới học đường, người ta lại định nghĩa: Đảo là một khoảng đất nhô lên giữa biển khơi, bốn xung quanh là sóng gió, mây nước. Bịa! Toàn là bịa! Làm gì có chuyện hoang đường như thế, hả các nhà khoa học? Xin các ngài hãy nhìn một sự thật đang lồng lộng hiện ra ở phía trước mặt kia kìa! Cứ tưởng các vị lúc nào cũng chính xác, cũng tỉnh queo như sáo tắm. Ai dè các bố cũng mơ mộng, cũng nói rặt những chuyện tưởng tượng. Đã thế lại còn đàn sáo văn thơ...
Chương III
Chim biển

Khi tôi lập cập bám thang dây leo được lên lều bạt, người mừng nhất, mừng ra mặt là một cậu lính trẻ mà sau này tôi mới biết là Hai. Trần Văn Hai, một thi sĩ lừng danh ở xứ đảo chìm. Hai trố con mắt thạch sùng nhìn tôi:
- Đúng ông anh thật à? Kinh nhỉ! Em không thể tưởng tượng được! Em cứ ngỡ ông anh khác kia. Ai ngờ lại xù xì thế này. Kinh thật!
- Kinh à?
- Vâng! Em nói ông anh đừng tự ái nhé! Trông ông anh cứ ùng ục như cái lão đào huyệt. Kinh bỏ bà! Thế mà trước đây, em cứ tưởng thi sĩ bao giờ người cũng mảnh mai, đôi mắt lúc nào cũng mơ màng, trầm uất và buồn thăm thẳm!
- Thì cậu cũng là thi sĩ mà cậu cũng có mảnh mai đâu nào?
- Em là thi sĩ đểu! Chúng nó gọi thi sĩ là gọi đểu đấy!
 Hai bỗng đỏ bừng mặt. Cậu ta quẳng cái ba-lô của tôi lên tầng giường cao nhất, rồi khẽ xuýt xoa như húp phải bát cháo nóng:
- Anh nằm giường này nhé. Đây là cái giường của thằng Thiêm. Đồ đạc của nó kia. Anh quản luôn cho nó. Cứ coi như cái giường này của anh.
- Thiêm nó về phép à?
- Không! - Hai bùi ngùi. - Nó mất rồi anh ạ! Chắc chắn là mất rồi. Vì chúng em đã lặn lội tìm nó ròng rã hơn tháng trời mà vẫn chẳng thấy. Tội quá, vừa rồi cu cậu lại có thư mẹ. Bức thư nó mong mãi hôm qua mới đến. Nó cứ sợ bà cụ làm sao. Người già như ngọn đèn trước gió, chả biết thế nào. Chúng em vẫn chưa báo tin về gia đình. Bà cụ cứ mong nó về lấy vợ. Thiêm ơi, u đã rấm cho mày một đám rồi đấy. Nhà cũng có sẵn con lợn trong chuồng rồi. Mày cứ về là cưới thôi. Con đừng lo gì cho u. ở nhà, u cũng còn mớ rau, nải chuối, cũng có đồng ra đồng vào. Con đừng gửi tiền cho u nữa. Nếu chính phủ có cho đồng nào thì con cứ bỏ vào cái hõng cột, tích lại mà cưới vợ, đừng gửi cho u nữa... Khổ, ở đây, tiền như giấy lộn, có dùng được vào việc gì đâu. Mà anh thấy đấy, làm gì có hõng cột...
Giọng Hai nghẹn lại. Đêm ấy, tôi không sao ngủ được, mắt cứ trân trân nhìn lên nóc bạt. Trên đó, chiếc ba-lô của Thiêm cứ đong đưa trong gió. Thỉnh thoảng, đôi đũa tre lại khua leng keng vào cái bát sắt sứt men. Vào những lúc như thế, Hai thường múc một bát nước ngọt đặt lên đầu giường, rồi lặng lẽ chắp tay, vái lên nóc bạt.
- Ông anh ra được đây là rất hay rồi. - Hai nói tuế toá, như muốn phá bầu không khí trầm lặng đang trùm khắp căn lều. - Cần gì, chúng em xin phục vụ đầy đủ. Bây giờ, ông anh là đại ca. Em chỉ là con tép. Có nhu cầu gì, xinđại ca cứ "quát" nhé! Em chiều tất! Chỉ cần đại ca sản xuất cho em một trăm bài thơ. Em sẽ bán dần cho chúng nó. Cứ là treo báo tường mệt nghỉ!
Chiều xuống dần. Mặt trời đã chìm khuất hẳn sau một bầu nước rùng rùng tím ngắt. Nhưng những đám mây vẫn còn bắt nắng, đi lừng lững trên đầu, rừng rực như những đám cháy lớn. Bầy chim biển đi kiếm ăn về. Chúng kêu oang oác quanh lều. Tiếng kêu hoang vu và tanh lợm mùi cá. Hai lẩm bẩm:
- Đêm nay lại mất ngủ vì bọn giặc trời này đây. Cứ là điếc tai nhức óc!
- Sao vậy? - Tôi ngạc nhiên.
- Vì ông anh mới ra, còn hơi người, nên chúng mới nhao đến làm tình làm tội. Mai, chúng sẽ "khinh" ông anh thôi!
Tôi bàng hoàng. Chẳng lẽ ngày mai, mình không còn hơi người nữa ư?
Thế rồi đúng như lời tiên tri của Hai, hôm sau, bầy chim lảng xa dần, chúng bay chao chát ở phía cuối biển, nơi bãi đá ngầm ánh lên một dải nước xanh nõn. Nhưng đấy là chuyện của ngày hôm sau. Còn bây giờ, lũ chim nhao đến như dã thú. Chúng đánh võng quanh lều, cánh đập loạn xạ và kêu như xé vải. Những con chim cũng lạ. Mỏ khoằm. Chân có màng như chân vịt. Chúng có thể bay trên không như mây và bơi dưới nước như vịt. Hai cái chân thành hai cái bai chèo. Chúng chui vào lều, đẻ cả vào chăn lính. Những quả trứng to hơn trứng ngỗng, vỏ xanh nhờ, lấm tấm những chấm đen. Lính ta thu gom trứng lại, cho vào thùng phuy. Nếu không kịp ăn, chừng ngót tháng sau, những quả trứng đó sẽ tự nở. Chim con tự mổ vỏ trứng mà chui ra, không cần mẹ phải ấp.
Chim ở đây tỏ ra rất khinh người. Hình như chúng tưởng người cũng là một loại chim nào đó. Chúng đứng ngay trên giường người mà chải lông,  tỉa tót trang điểm nhan sắc. Có con còn gườm gườm nhìn người thương cảm, như nhìn bầy chim cánh cụt đã già khú ra rồi mà vẫn chửa biết bay.
- Tiếc ở đây, chẳng có hải âu. - Hai tỏ vẻ tiếc rẻ. - Trước đây đọc thơ văn, sách báo, nghe các nhà văn đàn sáo, em cứ tưởng hải âu là bạn của thủy thủ. Hoá nhầm! Hải âu chỉ là bạn của dân thuyền chài thôi. Ngoài khơi xa này, làm gì có hải âu. Hải âu chỉ bay ven bờ, cách bờ chừng trăm cây số là cùng. Vì thế, đối với cánh lính biển chúng em, hải âu là ngọn hải đăng báo hiệu đất liền. Nhìn thấy hải âu là ngửi thấy "mùi" đất liền rồi. Nếu không may, có phải hy sinh trên biển, được thấy bóng hải âu chớp qua mắt trước khi nước khép mặt thì mừng lắm, vì có thể hy vọng những mẩu xương tàn của mình sẽ được sóng táp vào đất liền...
Tôi thoáng rùng mình, chợt nghĩ đến Thiêm. Quả là ghê gớm thật! Có lẽ chẳng có cái chết nào dữ dội như cái chết của người lính biển. Chết rồi mà vẫn chẳng được yên. Cho dù chỉ còn một mẩu xương tàn thì mẩu xương ấy vẫn phải giằng co, vật lộn với sóng gió.
Tôi nhìn mống ra cửa lều bạt. Biển mù mịt sóng. Đúng là ở đây không có hải âu, chỉ toàn ó biển, một loại chim rất dữ tợn. Chúng có thể bay ngược chiều bão. Sợ nhất là khi mót đẻ, có con đỗ ệch cả xuống mái lều. Tấm bạt thùng xuống từng đám lõm chõm, nom quái dị như những nhũ đá trong các vòm hang cổ.
- Biến ngay! Đổ lầu của các bố bây giờ!
Hai giậm chân bành bạch trên sàn lều, rồi quát lên nóc bạt. Mấy "nhũ đá" bỗng rùng rình. Một quả trứng to cộ còn dính những vết máu, trượt lông lốc qua mái bạt, rồi rơi bóp xuống nước.
- Đú đởn lắm vào! Cút!
 Hai lại quát lên mái bạt. Rồi cu cậu co tay, thụi tới tấp vào những cái bướu kỳ dị treo lủng lẳng trên đầu. Bị cú đánh bất ngờ, bầy chim kêu ré lên. Có con không kịp bay, rơi tuệch xuống biển. Chúng đập cánh quàng quạc trên mặt nước, rồi bay chéo qua cửa lều, phả vào mặt tôi một luồng gió hôi mù như hơi chó đẻ...
Chương IV
Một xứ sở tự do

 hòn đảo này quanh năm bì bọp sóng gió. Ngày hai lần nước ộc cả vào lều. Bởi vậy, ở lều đảo này, lại còn có đảo trong đảo nữa. Đó là những khối giường sắt quét sơn trắng chống gỉ. Mỗi người lính "cố thủ" một khối giường. Có đến ba, bốn tầng giường xếp chồng lên nhau. Tầng cuối cùng chọc lên tận nóc bạt. Lính quen gọi là tháp Epphen. Đó là những kỳ quan thế giới vẫn chìm khuất trong bóng tối bí mật mà loài người còn chưa kịp phát hiện. Thoạt đầu, tôi ngạc nhiên. Sao lắm giường thế? Sau mới hiểu những tầng giường đó dùng cho một người lính chẳng nhiều nhặn gì. Bởi đó là giường chống sóng. Bình thường, sóng bạc đầu lao vèo vèo ngay dưới chân sàn. Thế rồi thủy triều lên. Thoạt tiên là tiếng sóng vỗ chóp chép vào các tấm thanh sắt gầm sàn như bầy lợn bú. Rồi ào một cái, nước ngập mặt sàn. Rồi tầng giường thứ nhất chìm nghỉm trong nước. Lính ôm chăn chiếu lên tầng hai, rồi tầng ba. Nước rút lại tụt xuống. Ai lười, ngại vận động thì cứ ngự luôn trên tận đỉnh giời. Tha hồ ngắm trăng sao mây nước. Nhưng ở đây, ít ngài ngự được ở trên đó lắm. Trên đó tưởng tĩnh, hoá ra lại động. Động bởi mùi phân chim đâu có chịu yên. Thế nên lính cứ trèo lên, tụt xuống hoài hoài. Quanh năm, da thịt ẩm sì. Bởi thế lính ít khi đóng bộ. Thường chỉ vận roỏng rẻng một cái quần đùi, có khi cứ nhông nhênh như thể bà mụ vừa mới nặn. Quần áo lại dính nhớp nháp, ẩm ướt suốt đêm ngày, hoá vướng víu, khó chịu. Mà quần áo là cái quái gì nhỉ? Hai bảo tôi:
- Quần áo là vật xa xỉ phẩm của xã hội, ông anh ạ! - Nói rồi, cu cậu cười tít mắt. - Mình "quàn" trong một đống vải là vì thiên hạ, chứ có phải vì mình quái đâu. Cứ tưởng quần áo là vật trang sức của riêng mình. Nhầm! Nó là đồ đạc của thiên hạ cả. Mà tức nhất đồ đạc của thiên hạ, nhưng thiên hạ lại bắt mình cứ phải suốt ngày đeo vác lỉnh kỉnh, nom ti tiện như cái gã bủn xỉn, lúc nào cũng lo sợ mất trộm. ở đây, chẳng có thiên hạ nào hết, nên mình lại nhẹ nhõm, lại hoá anh tự do.
Hai gườm gườm nhìn tôi, như nhìn một người ở ngoài hành tinh:
- Trông ông anh đai nịt lỉnh kỉnh, nom rất lạ mắt và buồn cười. Thật, trông ông anh buồn cười lắm ý. Cứ như người trung cổ. Hình như đại ca có khuyết tật gì đó, nên cứ phải che che đậy đậy, giấu giấu giếm giếm. Chứ văn minh hoàn thiện như chúng em đây, có ai khổ sở, rúm ró như thế bao giờ...
Chương V
Nhà thơ của đảo

Nhàn cư vi bất thiện. Người xưa nói thế. Mà người xưa đã nói là cấm có sai bao giờ! Chính trị viên Thuận cũng có tầm nhìn và cách nghĩ sâu rộng chẳng thua kém người xưa. Chính anh cũng thấy ngại cái nhàn cư của lính, nhất là trong cái giang sơn Tổ quốc chỉ vỏn vẻn có mấy mét vuông lều này. Thế là anh nghĩ ra một việc để lính lúc nào cũng có cái mà bận rộn. ấy là làm báo tường. Cứ ba ngày một tờ báo. Lính chẳng sợ gì. Sóng gió. Cá mập. Bão biển. Rồi cả những âm mưu thôn tính của kẻ thù. Chấp tất! Chơi tất! Không có ngán đâu nhé! Lính chỉ sợ làm thơ thôi. Đối với cánh lính đảo đấy mới thật là một việc hãi hùng. Nhưng thói thường, giời đã sinh voi thì giời tất sẽ sinh cỏ!
Thì đấy, tự dưng ở hòn đảo này, lại nảy sinh một gã thi sĩ. Đó là Hai. Trần Văn Hai, một anh chàng bơi lặn như rái cá. Quê cu cậu nghe đâu ở cầu tõm Hà Nam, cái vùng quê quanh năm lụt lội. Cánh lính đồn rằng, Hai đẻ rơi dưới nước, nên cậu ta biết bơi trước khi biết bò. Chẳng biết hư thực thế nào. Chỉ thấy suốt ngày, Hai lặn ngụp bì bọp trong nước, dường như không ngâm nước không chịu được. Bởi thế, quanh năm, cậu ta cứ thông thênh như thể bà mụ vừa mới nặn. Tên cúng cơm là Hai. Ra đảo, cánh lính nối thêm cái đuôi thành thằng Hai ùm. ở đây, ai tắm, nhảy xuống đảo cũng chỉ ùm một cái gọn nhẹ. Cậu ta lại làm luôn hai phát ùm ùm. Có điều, cái ùm sau lại to hơn cái ùm trước. Hãi thế!
ấy là nói cái thời cậu ta vẫn còn hàn vi kia. Nghĩa là dạo còn chưa phát tiết thơ phú. Chứ bây giờ, nhờ có thơ, Hai phất lên thành chúa đảo rồi. Suốt ngày, cậu ngự trong cung cấm, là cái lều bạt bồng lai tiên cảnh này. Mọi việc tắm rửa đã có lính hầu hạ, việc chi phải nhảy ùm xuống đảo tắm như lũ trẻ trâu.
Số là, ba ngày phải có một tờ báo tường. Đấy là chiếu chỉ của chính trị viên Thuận. Nghĩa là cứ ba ngày, phải có chục bài thơ dán kín quanh cái thùng phuy neo ở cột lều. Mà thơ phú lại là công việc của tài năng. Mà tài thơ thì ở đây, giời lại chỉ dồn cho chàng Hai ùm. Hai có thể xuất khẩu thành chương, đọc vanh vách ra vần ra điệu. Hai có đến hàng trăm bài thơ lâm li về cái hòn đảo chẳng có gì này. Nói như Tư Xồm, anh chàng quản lý nước ngọt kiêm nhà bình luận thơ phú thì bài nào cũng tuyệt tác, nghe hay đến chảy nước tai.
Cũng vì có tài thơ như thế, nên thần dân của đảo cứ phải đến khấu đầu trước Hai, xin ngài Hai ùm nhón tay làm phúc, ban cho một bài thơ để dán lên báo tường. Tất nhiên đi xin chữ là phải có lễ. Khi tàu ra, nhu yếu phẩm tràn ngập lãnh thổ, tha hồ ấm chân răng, để nhận một bài thơ, người đi cầu chữ quýphải cúng cho Hai ùm một bao thuốc đầu lọc. Khi của nả cạn dần, thời tiết có cơ thất bát thì cũng phải một điếu thuốc một bài thơ. Tất nhiên Hai ùm chẳng ăn riêng cái gì bao giờ. Cậu ta đưa hết của nả, châu ngọc vào kho, là cái ba-lô bạc phếch gió biển, treo bùng biêng trên nóc lều. Thi thoảng Hai lại ban lộc cho dân chúng. Thì thế mới là vua chúa chứ! ấy, cũng nhờ có ông vua Hai ùm mà châu báu, ngọc ngà luôn được điều tiết, không bị rơi vào thảm cảnh: Lúc no xôi chán chè, lúc mồm miệng trống huếch trống hoác như hang ếch mùa hạn. Tuy vậy ăn chơi vẫn phải tốn kém. Chỉ khổ cho những cậu đến xin chữ mà trong tay lại trắng lốc, chẳng có gì. Nhưng được cái, mấy cha đó cũng láu. Không ít cha còn vác cả chị gái, em gái ra để cầm cố cho Hai.
- Thật, tớ thề là em gái tớ xinh lắm. Tớ sẽ bảo nó thư cho cậu. Nhất định lần sau tàu ra, cậu sẽ có thư nó. Bao nhiêu vệ tinh vo ve quanh nó, tớ sẽ cho đi tàu ngầm hết. Nó là á hậu thanh lịch ở huyện tớ đấy!
 Hai chỉ ụ ị cười. Con mắt đỏ kè như mắt thạch sùng liếc chéo cái hàm răng vẩu của Tư Xồm đang dẩu ra quảng cáo nhan sắc cô em ruột á hậu.
- Không! Không! - Tư Xồm vội đưa một tay che miệng, còn tay kia xua rối rít như đuổi ruồi. - Em gái tớ không giống tớ! Tớ thề là nó không hề giống tớ một tí tẹo nào!
Nhưng ai mà tin được những nhan sắc mơ hồ lại còn xa khuất mấy tầng mây nước ấy. Thế là a lê... hấp! Không có của nả thì lấy mồ hôi, lấy sức lực cơ bắp ra mà đổi lấy vẻ đẹp tinh thần. Cánh lính trẻ lễ mễ, bì bọp lội xuống đảo, xách nước lên tắm cho Hai. Hai cứ việc nằm chềnh ềnh trên sàn lều, thậm chí cậu ta còn thượng cả cái thân hình kềnh càng như một con vích lên tận đỉnh giời, là cái tầng giường cao nhất, cho lính giội nước, kỳ cọ. Có tài sướng thế chứ! Lính cứ thi nhau thở phì phò như kéo bễ. Còn Hai thì vừa nghểnh đầu, ghểnh hết cả tứ chi của cái ngọc thể cho lính lau khô, vừa càm ràm cứ như bị oan ức lắm:
- Khổ! Thơ phú bây giờ rẻ rúng thế đấy! ới cụ Tản Đà ơi là cụ Tản Đà! Chẳng phải ngày xưa chỉ có cụ khổ đâu! Nhà thơ chúng con bây giờ cũnghoàn cảnh lắm! Văn chương hạ giới đúng là rẻ như bèo...
Chương VI
Bữa yến tiệc
không thành

Gọi yến tiệc, nghe có vẻ linh đình, to tát quá. Thực tình đó chỉ là bữa trứng chim rán mà Hai ùm nhã ý chiêu đãi tôi, gọi là mừng "Đại ca ra đảo", và cũng muốn đại ca hưởng chút đặc sản, là hương vị đặc biệt của xứ đảo chìm. Hai đập đến chục quả trứng, cho vào xoong quân dụng ngoáy tít như nấu bánh đúc, rồi đổ thêm nửa bát ớt, gọi là để khử tanh. Nhưng rốt cuộc, tôi vẫn không thể nuốt nổi những miếng trứng ram ráp, khô khỏng. Nếu không có mùi tanh sặc ói lên đến tận óc, có lẽ tôi đã tưởng mình xơi nhầm phải món... mùn cưa trộn với bột mỳ.
- Thôi được, "quên" món trứng chim đi, đại ca ạ! Em sẽ đãi đại ca một bữa cháo cá! Ông anh chén được cháo cá chứ?
Nói vậy, nhưng Hai lại tót lên tầng giường cao nhất, chọc một chân ra cửa sổ bạt, rồi véo von ca cải lương. Lời ca là cái dự báo thời tiết. Thì ở đây vẫn vậy. Hàng mấy tháng trời, báo chí mới đến nơi. Lính truyền nhau đọc. Đọc đi đọc lại đến thuộc làu cả tờ báo, rồi lúc buồn lại mang xã luận, mang cả cái dự báo thời tiết ra ca cải lương. Cái miệng Hai bành ra, giọng nhèn nhẹt:
- Hôm ( ý) nay
Trời nhiều mây
Thỉnh (a ) thoảng ( a ) có mưa
Tầm nhìn xa( ư) trên mười cây số
Tôi vỗ vào cột giường:
- Sao đã rên rẩm sớm thế. Đói à? Cho tớ hóng mát với nhé!
- Hóng mát thế nào? - Hai chõ đầu xuống. - Người ta đang lao động vất vả đây này! Lên đi, đại ca! Giúp em một tay với nhé!
 Tôi đu thành giường, leo lên. Hai đang nằm ngửa tênh hênh trên tấm phản gỗ. Trông rất khiếp. Tôi vội lấy cái vỏ chăn đậy lên bụng cậu. Hai càu nhàu:
 - Ông anh chỉ khéo vẽ, chỉ được cái lịch sự rởm. Vướng víu thế này thì còn làm được gì?
Hai hất cái vỏ chăn ra. Còn tôi thì kinh ngạc. Thoạt đầu, tôi tưởng Hai hóng mát. Hoá ra cu cậu đang câu. Mồi cá ném luôn xuống đảo, còn dây câu buộc vào các ngón chân. Cái chân trần chọc ra ngoài cửa sổ bạt của Hai thành một chiếc cần câu rất thính nhạy. Thỉnh thoảng, Hai lại oằn người, kêu oái lên một tiếng như vừa bị ai cấu véo. ấy là lúc cá cắn. Hai co người rất nhanh túm sợi dây câu. "Không nhanh, nó tiện đứt ngón chân như bỡn đấy, đại ca ạ!" Hai xuýt xoa nói như phân bua. Sợi dây câu chạy loằng ngoằng trên mặt nước, vẽ ra những đường nét rối loạn. Hai co người giật mạnh. Rồi hẫng "phựt". Con cá đã bị mập bớp. Một cái đầu cá đỏ nhoét máu run bần bật trên sàn lều nhấp nhoá ánh đuốc. Con mắt cá trừng trừng lồi ra như vẫn còn chưa hết kinh hoàng, rồi nổ đóp một tiếng khô khỏng. Cũng do sự thay đổi đột ngột của áp suất không khí, hầu như con cá nào nhô khỏi mặt nước cũng bị nổ mắt như vậy. Thế là mất toi cả món mắt cá.
- Tiên sư lũ cướp biển. Láo!
Hai đập rầm rầm vào vách bạt, rồi quát xuống đảo, vẻ dậm doạ. Nhưng rồi suốt đêm ấy, Hai chỉ câu được một đống đầu cá nhoe nhoét máu. Con cá nào cũng bị lũ mập thiến mất một nửa. Có khi tham quá, mập mắc câu luôn. Thế là lại phải giằng co với mập. Một cuộc giằng co quyết liệt. Gặp con mập to quá, Hai phải chặt dây câu cho con mập phóng đi, vì không thể lôi thằng cướp biển đó lên sàn lều được. Đành phải để nó tẩu thoát. Nhưng trước khi mở lượng khoan hồng, "tha bổng" cho con mập, Hai cũng phải quần cho cu cậu một phen nhễ nhại. Hai ghì sợi dây câu vào cọc sắt cột lều, nới ra cho cu cậu giãy giụa rồi lại thít chặt, kéo con mập vào thật gần, thật gần. Đoạn, Hai chổng đít, sõng lưng phóng thẳng một luồng tức giận xuống biển. Mặt nước rực một quầng lân tinh xanh lét.
- Toi chưa con! Chết chưa con! Bận sau thì chừa nhé! Đừng có ghẹo bố nhé!
 Hai rít lên sảng khoái. Nhưng con mập đã biến mất, để lại một khoảng nước lạnh ngắt. Sợi dây câu lao thun thút xuống biển, rồi lặn hút trong màu nước tối rợn, âm u...
Chương VII
Cô tiên trên đảo
Vâng, đúng như vậy đấy. Cô là Tiên giáng thế. Nghe đồn cô đẹp lắm. Mái tóc dài óng ả. Da trắng nõn. Cô đi tới đâu là ở đó xao động. Chàng trai nào nhìn thấy cô, cũng ngẩn ra, rồi sững sờ như hoá đá, còn đá lại bồn chồn, lại rạo rực, lại muốn hoá thành người, thành một chàng trai, để cô lé mắt đến. Nói tóm lại, cô đúng là một nàng Tiên, Trời giáng xuống trần. Bởi thế, cô có cái tên cũng rất trần thế - Tương. Trần Thị Tương. Nhưng một người con gái đẹp như thế không thể lại là Thị Tương được. Thị Tương có khác gì Thị Nở. Nghe cứ ghê cả răng. Thi sĩ Hai ùm quyết định đặt lại tên cho cô là Mộng Tương. Thế rồi cả đảo gọi cô là Mộng Tương. Phải vậy chứ! Người trong mộng cơ mà.
Mộng Tương là con gái đầu lòng của chính trị viên Thuận. Cũng mới chỉ láng máng có thế, cánh lính trẻ đã tíu tít "tranh thủ" bố Thuận, kiếm chỗ "buông neo" cho đời bớt lênh đênh rồi. Chính trị viên Thuận khoái lắm. Thế ra có con gái cũng hay. Vậy mà thằng cha nào lại bảo ở cái thời này, đẻ con gái không bằng con trai. Rõ thật ngu như bò! Thuận tủm tỉm cười. Nụ cười nửa vời, chỉ khẽ thoảng một chút ở bên mép, nhưng vẫn có sức mạnh của một ông bố vợ tương lai. Chả thế, đám lính trẻ xun xoe anh ra mặt. Rồi chẳng biết từ bao giờ, họ đã chuyển "thủ trưởng" lên ngạch "bố" một cách ngọt xớt. Cả hòn đảo tranh nhau gọi chính trị viên Thuận bằng bố. Chỉ duy nhất có một người không chịu chấp nhận. Đó là Tư Xồm. Ngay từ hôm đầu, khi Hai ùm cứ một điều "bố Thuận", hai điều "bố Thuận", Tư đã thấy có gì khấp khểnh. Bởi Thuận trẻ quá, trẻ đến nỗi, cứ theo lời Tư thì cái mặt vuông vức của cậu ta còn có phần "cũ" hơn gương mặt "bố" Thuận.
Nói thế, không có nghĩa Tư là anh lính già. Nếu so tuổi thì cậu ta chỉ đáng em út của đảo. Nhưng lạy giời, Tư lại được trời phú cho bộ râu sum suê giàu có. Hồi còn ở đất liền, bộ râu chỉ khẽ thoảng một vệt xanh mờ, khiến khuôn mặt cậu ta lúc nào cũng âm âm như bị ám khói. Nhưng ở đây, dưới vòm trời âm u, không tiếng gà, không bóng trẻ, người ta dần quên đi những cái dáng ong óng đầy huyền bí của các cô gái. Người ta cũng quên luôn cả vẻ trai tráng của chính mình. Bộ râu của Tư cũng bị bỏ quên, nên tha hồ bành trướng. Chúng tranh nhau mọc. Sợi xỉa ra. Sợi quặp vào, nom xùm xoè nghiêng ngửa như chùm rễ dại trắng phếu cặn muối vểnh ra ngoài lợi nước. Tư như trẻ, lại như già. Một bộ mặt hoang vu rất khó xác định niên đại. Bởi thế cậu ta không thể có đủ sự dũng cảm để nhún mình xưng "con" trước một người thanh mảnh, tịnh không hề có một sợi râu. Mặc dù mái tóc thưa mềm của Thuận cũng đã có sợi vẩn lên, xâm xâm như bọt sóng. Nhưng trông anh vẫn chỉ như người trạc tuổi ba mươi. Có lẽ anh trẻ nhờ nước da mịn và mỏng. Nước da ấy dường như không bao giờ ăn nắng, cứ chín ửng lên như da con gái dậy thì. Một người như thế lại là bố tiểu thư công nương xinh đẹp, một nàng tiên giáng thế. Hừ! Cũng khó mà có thể tin được!
Nhưng dẫu Tư không tin thì tiểu thư công nương Mộng Tương cũng vẫn trở thành người thân của cả hòn đảo. Chỉ tiếc chẳng có ai được chiêm ngưỡng vẻ đẹp kiều diễm của nàng. Có lẽ cũng vì thế mà nàng càng trở nên lung linh, kỳ ảo. Ngày nào cánh lính trẻ cũng nhắc đến nàng, vanh vách kể về nàng, cứ như họ đã từng quen nàng từ lâu lắm. Thoạt đầu, chính trị viên Thuận còn lắc đầu quầy quậy. Bố láo! Mấy cái thằng quỷ sứ nhà giời! Thuận tìm mọi cách lảng tránh. Nhưng cũng như thể tình yêu. Kẻ trốn chạy thường vẫn bị săn đuổi. Thuận bị "săn" tới tấp. Chỗ này "bố vợ", chỗ kia "bố vợ". Đảo cứ cồn lên như có đám mổ bò. "Láo toét! Em nó còn bé lắm. Chúng mày phải để cho nó lớn đã chứ!" Thuận dủm dỉm cười, nhưng khoé mắt lại ầng ậng nước. Anh không ngờ cô con gái rượu của mình lại trở thành niềm vui cho cả hòn đảo, nơi tưởng chẳng có gì để mà vui thú. Rồi Thuận cũng quen dần với trò chơi đó của lính.
- Thôi, chúng mày ngủ đi! Khuya rồi đấy! Đêm nay đứa nào gác? Thằng Hai à? Gác cho cẩn thận nhé! Lớ ngớ là tao mách em Tương đấy!
Thuận trở về đài chỉ huy đảo. Anh bước oai phong như một ông bố vợ thực thụ. Sương biển xuống tê tê. Phía sau lều bạt, biển bục lên một đám cháy lớn. Trăng đang mọc. Vài con ó biển giật mình, kêu oang oác trên thinh không mung lung mờ mịt... Cánh lính đảo không ai ngủ được. Loanh quanh thế nào lại quay về chuyện em Tương. Ngày nào cũng chuyện em Tương. Đến nỗi dần dần Tư Xồm, một anh chàng vốn đa nghi cũng đâm ra hoang mang. Hay là có cô gái như thế thật nhỉ? Mà đúng là có cô gái như thế thật. Dường như cô không còn ở trong chuyện huyền thoại của lính nữa mà đã xuất hiện thực sự trên hòn đảo này rồi. Chả thế mà tự dưng, hòn đảo bỗng như đổi khác. Nhiều anh chàng cục mịch cũng đột ngột trở thành đỏm dáng. Đến cả thi sĩ Hai ùm, người quanh năm vẫn khinh trời nước bằng tấm thân tồng tềnh bà mụ nặn, giờ cũng "quàn" trong một bộ cánh diêm dúa mỗi khi có việc phải đến chỗ bố Thuận. Có chàng lính mò được con ốc nón, cũng hì hụi gọt giũa, kỳ cạch làm thành cái bình hoa, rồi rón rén đến chỗ bố Thuận, nhờ bố chuyển tặng em Mộng Tương.
Thế rồi, đột ngột thư Tương tới đảo. Ôi chao! Phải nói đó là một ngày náo nhiệt, chộn rộn. Lần nào tàu ra, đảo cũng như ngày hội. Huống hồ chuyến tàu này lại có thư của tiểu thư công nương. Nhưng thật oái oăm. Bữa đó biển động. Trời tối mù mịt. Sóng nổi trắng như mây. Tàu không cập mạn được, cũng không buông nổi neo. Sóng chồm cả lên nóc đài chỉ huy. Con tàu đành cắt sóng, chồm chồm lượn quanh đảo. Chẳng có cách chi chuyển được hàng vào, mà cánh lính thì không thể "nhịn" thêm được. Phải cho anh em "ngửi" chút đất liền chứ! Tư Xồm nhảy phắt ra cửa lều, cởi cái áo yếm, phất lên trên không, rồi quay tròn ba vòng. ấy là tín hiệu để ngoài tàu mở máy hai oát.
- Thế nào hở các bố? "Đứt neo" hoàn toàn à?
- Chịu! "Đứt" trăm phần trăm rồi! "Phới" thôi. Không thể vào gần được đâu! Sóng nó dồi vào bãi san hô thì chỉ có tan xác pháo.
- Thế thì chuyển thư đi! - Tư Xồm quát vào ống nói. - Chúng tớ không "nhịn" thư được, hiểu chưa!
Đám thủy thủ trên tàu đành phải bóc từng bức thư, đọc qua máy thông tin hai oát. Đến lượt thư của bố Thuận thì cả đảo nháo nhác. Cánh lính trẻ tíu tít châu quanh cái máy thông tin đã vặn to hết cỡ.
- Cái gì? - Hai ùm gào vào ống nói. - Đọc đi! Đọc lại đi! Đọc lại xem nào! Thư em Mộng Tương phải không?
- Không phải Mộng Tương. Trần Thị Tương! Tương cà mắm muối đây nhé!
- Khỉ! Mấy thằng phải gió! Đừng có láo lếu. Đọc đi!
- Bố ơi, con nhớ bố lắm. Nhưng con không khóc nhè như mẹ đâu. Hôm nào đài báo bão ở Trường Sa là mẹ lại khóc đấy. Con không khóc. Mẹ bảo, con cứ ngoan là bố sẽ về...
- Cái gì?
- Con cứ ngoan là bố sẽ về. Nghe rõ chưa? Dạo này con ngoan lắm. Con không quấy mẹ, cũng không gác chân lên cổ mẹ nữa. Hôm nào bố về, bố nhớ mua cho con ba quả bóng bay như của cái Tèo. Mí nữa đêm ngủ, con không còn đái dầm nữa đâu bố ợ...
- Ô hay, cái thằng này... Mày... mày... Bố láo! Ông thì cho một chưởng bây giờ... - Hai ùm vung tay tuyên bố. - Mấy thằng toàn xuyên tạc. Chúng nó trêu bọn mình. Thôi, tắt máy!
- Không, không đâu. Anh em đọc đúng đấy. - Chính trị viên Thuận kêu lên. - Thư con Tương thật đấy! Nó vẫn hay đái dầm mà...
- Ơ kìa, bố Thuận! Trời ơi, bố làm sao thế? - Tư Xồm buột miệng gọi chính trị viên Thuận bằng bố. - Làm sao lại có chuyện như thế được? Không! Không!..
Chương VIII
Người lính gác Đảo Chìm
Mãi đến sâm sẩm tối, biển mới lặng dần. Nhưng những đám mây xám đục vẫn tướp táp bay trên nóc đài chỉ huy. Chật vật mãi, con tàu mới buông được neo. Giờ thì nó chỉ còn lảo đảo, ngật ngưỡng trên sóng như người vừa mới ốm dậy, vẫn chưa hết váng vất. Nhưng đám lính trẻ đã tỉnh queo như sáo tắm. Họ ùa cả ra tàu. Xuồng chật thì lóp ngóp bơi bộ. Bức thư của tiểu thư công nương Mộng Tương lập tức được chuyền tay khắp lượt đám trai trẻ. Hoá ra tụi lính tàu không bịa. Tiểu thư vẫn còn đang đái dầm. Hai ùm cười sùng sục:
- Hay! Tha hồ là tương lai!
- Tương lai cái khỉ gì!
- Thì em Tương càng trẻ chứ sao? Cậu thích gái già à?
Rồi Hai ùm toác miệng ứng tác luôn hai câu thơ mà cu cậu rất lấy làm khoái chí: Tội gì mê gái đảm đang - Chúng ta chờ lấy cháu ngoan Bác Hồ. Này! Đứa nào muốn lọt vào mắt cháu ngoan Bác Hồ thì phải có phiếu bé ngoancủa bố Thuận nhé. Con xin đăng ký làm bé ngoan đây!
Thế là đám lính trẻ lại vây lấy bố Thuận. Xứ đảo chìm nhộn nhạo như một vườn trẻ. Tư Xồm có vẻ buồn. Cu cậu không tham gia cuộc vui, chỉ nhếch mép cười gượng gạo. Khi Hai đánh xuồng về lều bạt thì Tư đã lên giường nằm. Chẳng biết nghĩ ngợi gì mà cậu chàng cứ trằn trọc mãi, thỉnh thoảng lại đưa tay gãi bụng sồn sột. Căn lều bạt hoang lạnh không một ánh lửa. Trong đêm, trông nó rờn rợn như hang động người tiền sử. Bầy chim biển chao chát quần lượn trên nóc lều. Không biết trở trời hay sắp có bão mà chúng lại về hành hạ thế này? Hai thấy mắt díp lại. Mấy đêm thức trắng đợi tàu. Giờ người cứ bẫng lẫng. Hai chọc chọc báng súng vào tấm lưng to bè như mai vích của Tư Xồm. Cái thằng lạ thật! Có gì mà phải đai nịt lỉnh kỉnh thế này. Tối mò còn làm đỏm. Chỉ tổ cho rệp chim nó rúc. Thảo nào cu cậu gãi khiếp thế. Hai càm ràm:
- Vô lý thật! Thằng được ngủ thì cóc ngủ được. Thằng không được ngủ thì lại buồn ngủ trĩu mắt. Này, thằng khỉ, gác hộ tao chút. Khi nào mày buồn ngủ thì trả lại tao. Tao sẽ làm cho mày hai bài báo tường. Được chưa? Bây giờ ngồi ôm súng nhớ em là tuyệt nhất đấy! Lúc nào buồn ngủ thì đánh thức tao nhé!
Hai ghệch khẩu súng lên thành giường, rồi chui luôn vào chăn. Trước khi cất tiếng ngáy như sấm, cậu ta còn dậm doạ:
- Này, nhớ gác cho cẩn thận! Tư lệnh ra đấy. Bố già rất hay chơi cái trò bất ngờ đột nhập đảo. Lần trước ông cụ đã "cạo" thằng Thiêm một mẻ tơi bời đấy!
Chuyện ấy xảy ra cách đây đã mấy tháng rồi. Đêm đó đến ca Thiêm gác. Nhưng mấy ngày liền trằn trọc chờ tàu ra, giờ thì mệt quá, cu cậu ghệch súng vào lan can lều bạt, rồi cứ ngồi gục thế mà ngủ. Ngủ như chưa bao giờ được ngủ. Ngoài mép san hô, tàu đang chiếu phim. Cánh lính đảo dồn hết lên boong xem phim. Con tàu cũng không xa căn lều. ánh sáng của ngọn đèn trên nóc đài chỉ huy còn rập rềnh rọi qua cửa sổ bạt soi rõ từng tấm chăn rách của lính. Làm sao có thằng địch nào dám lẻn vào đảo. Thiêm biết vậy nên cứ yên tâm đánh thẳng một giấc đến sáng. Khi mở mắt, thì quái lạ, khẩu súng AK của cu cậu đã không cánh mà bay. Thiêm tìm khắp không thấy. Lính mất vũ khí thì toi rồi. Kỷ luật là cái chắc. Mà không khéo còn phải ra hầu toà án binh nữa. Bụng Thiêm cồn cào như lửa đốt. Trong lúc đang bối rối như thế thì Tư lệnh Giáp Văn Cương đánh xuồng vào. Vừa thấy Thiêm, ông hỏi ngay:
- Mày mất súng phải không? Tao nhặt được đấy. Súng tao cất ở ngoài tàu kia kìa! Ra đó mà nhận!
Thiêm nhảy lên mừng rỡ. Hoá ra đêm qua, Tư lệnh đột nhập đảo, thấy Thiêm ngủ khò trong lúc trực chiến, ông quyết định thu súng mang ra tàu. Phải cảnh cáo cu cậu thôi. Không thể khác được. Gương mặt Tư lệnh thoáng buồn rượi.
- Lính tráng gì mà lạ. Canh gác kiểu ấy thì chỉ cần một thằng người nhái vớ vẩn cũng chiếm được đảo!
- Con mệt quá, bố ạ! Mấy hôm vừa rồi không ngủ được!
- Mệt thì sao không báo đơn vị để thằng khác gác thay cho. Có ai bắt người ốm làm việc đâu?
- Con xin lỗi bố...
- Mày cũng như con cháu tao thôi. Nỡ lòng nào mà tao đày đoạ chúng mày. Nhưng khổ nỗi đây lại là Tổ quốc. Tổ quốc thì không thể bỏ được! - Tư lệnh cười buồn. - Nếu mày thấy làm lính mệt quá thì vào đất liền làm Tư lệnh, để tao gác thay cho. Mày làm được Tư lệnh không?
Thiêm bàng hoàng trước câu hỏi đột ngột của Thượng tướng Giáp Văn Cương. Làm sao con làm được Tư lệnh? Thiêm cười gượng gạo. Thượng tướng ứa nước mắt. Giọt nước mắt của một ông già ngót bảy mươi tuổi khiến Thiêm bủn rủn chân tay.
- Con xin lỗi bố!
- Thôi, ra tàu mà nhận súng đi!
Tư lệnh bỗng quát to, như để giấu nỗi xúc động. Có lẽ thằng bé cũng chỉ bằng tuổi ông khi ông mới nhập ngũ, mới tham gia trận đánh đầu tiên ở chân đồi A1 Điện Biên Phủ. Cái tuổi ấy đang khoẻ ăn, khoẻ ngủ. Nó có vứt súng đi thì cũng chẳng có gì lạ. Ông định cứ để mặc cho thằng bé tìm kiếm bã bời ra đã rồi sẽ gặp nó sau, để ít ra cu cậu cũng thấy sợ mà chừa cái thói đểnh đoảng chết người ấy đi. Nhưng rồi ông lại lo cậu ta tưởng súng rơi xuống biển, lại lao xuống biển mò thì khổ nó mà cũng nguy hiểm nữa. Thế là không kìm được, vừa rạng sáng, ông đã đánh xuồng vào.
 Bây giờ thì Thiêm đã thành người thiên cổ rồi. Không biết rảnh xương tàn của cậu ta trôi dạt về đâu? Biển cả mênh mông mù mịt thế này.
Tất cả chỉ tại cái lũ ó biển chết tiệt! ở những hòn đảo lớn, bầy chim giũ xuống cát hàng triệu triệu con rệp. Ngày nóng, lũ rệp lặn sâu dưới cát. Đêm xuống, đảo nguội dần thì chúng ngoi lên, rồi cứ nhè lính mà đốt. Đốt rất ngọt, không đau đớn gì, nhưng sau đó thì ngứa. Ngứa khắp người. Da thịt mẩn đỏ, rồi mưng mủ. Lính không biết chạy đâu cho thoát rệp. Họ như bầy chim cánh cụt, không có lông bao phủ, che chắn, nên bầy rệp tha hồ mở đại tiệc trên da thịt lính. Tổng cục Hậu cần đã cử một đoàn bác sĩ ra đảo, chỉ làm mỗi một việc là tìm cách diệt rệp chim. Thuốc phun chưa tới được mặt cát thì những trận gió biển cấp 5, cấp 6 đã cuốn bay sạch. Đảo chìm không có cát, rệp lặn vào chăn chiếu, biến chăn chiếu thành hang ổ kiên cố. Mấy đêm liền, lính đảo không ngủ được. Thiêm đem chăn xuống biển giặt. Rồi một đợt sóng bất ngờ ào đến, cuốn chiếc chăn ra xa. Thiêm nhào theo vớt. Nước chảy rất xiết. Thấy Thiêm chới với bên mép san hô, Tư Xồm vội lao ra. Rồi Tư Xồm cũng bị sóng cuốn nốt. Thế là Hai ùm nhảy xuống cứu bạn. Nhưng rồi ngay lập tức, con cá kình ấy cũng lại bị biển nhấn chìm. Đảo khẩn cấp báo động. Tàu trực chiến rú còi, rồi tức tốc cắt sóng tìm những người bị nạn. Chật vật mãi đến gần nửa đêm, cánh thủy thủ mới tìm vớt được Hai ùm và Tư Xồm. Còn Thiêm thì chẳng thấy đâu cả. Có lẽ cậu ta bị sóng quật vào đá ngầm, rồi mắc lại ở một hốc đá nào đó. Mấy ngày sau cũng không tìm thấy xác.
Suốt một tuần liền, cái chết đột ngột của Thiêm thành bầu không khí nặng nề trùm khắp hòn đảo. Đến cả tháng sau cũng vẫn thế. Bởi ở đây, ngày dài lê thê, đêm lại ngắn choặn. Nhiều khi chưa kịp chợp mắt cho khuây thì đã sáng mất rồi. Bữa nay cũng vậy. Chưa đầy bốn giờ, mặt trời đã hắt nắng lên tận nóc bạt. Nắng rọi qua cửa sổ. Nắng toả từ dưới mặt nước lên. Chính những luồng nắng rừng rực ấy đã đánh thức Hai dậy. Hai dụi mắt nhìn ra cửa bạt. Rồi bàng hoàng. Ai như Tư lệnh Cương? Mà đúng là Thượng tướng Giáp Văn Cương. Ông già đang ôm AK ngồi trước cửa lều. Mái tóc xổ bạc trắng.
- Ốí chết, sao, sao lại thế này?
Hai thảng thốt kêu lên, rồi nhảy ào xuống sàn lều.
- Thằng Tư đâu rồi thủ trưởng?
- Tư nào?
- Tư Xồm! Cái thằng cu gác đêm qua ấy mà!
- Chẳng có Tư nào cả. Chính cậu đã trao gác cho tớ.
Hai sửng sốt nhìn Tư lệnh. Chết chửa, hoá ra là bố già. Mà sao bố đột kíchđảo sớm thế, lại nằm ngay trên chính cái giường của Tư Xồm. ừ, mà quả thật lúc đó, mình cũng ngờ ngợ vì bộ quân phục nghiêm chỉnh quá, nhưng lại nghĩ chắc cậu chàng muốn làm đỏm trước mặt bố Thuận nên mới "quàn" trong bộ cánh diêm dúa như thế. Ai ngờ bố già! Thảo nào đêm qua, chim biển bay loạn xạ trên nóc bạt. Vậy mà tại sao lúc ấy mình lại không nhận ra nhỉ?
- Bố tha tội cho con! Chết thật! Con cứ tưởng thằng Tư. Có lẽ đêm qua nó ngủ lại ngoài tàu mà con thì lại không để ý. Con thành thật xin bố xá tội..
- Tội lỗi khỉ gì! - Tư lệnh cười hiền hậu. - Cậu là lính. Tớ cũng là lính. Cậu gác mấy năm trời còn được. Tớ gác mỗi một đêm thì nào có bõ bèn gì!

Chương X
Tiếng còi tàu đột ngột
        Bây giờ thì chính trị viên Thuận đã chính thức trở thành ông bố vợ của cả hòn đảo. Cánh lính trẻ đều đồng loạt gọi anh bằng bố. Chỉ có Tư Xồm thi thoảng - vào những lúc tỉnh táo nhất - có tính toán chi li hạ anh xuống một bậc thành anh phó bố vợ. Bởi lẽ tiểu thư công nương Mộng Tương hiện giờ vẫn còn đang ở cái tuổi đái dầm. Nhưng cánh lính gọi anh bằng bố quen rồi. Cứ nhí nháu thế lại vui, lại gần gụi, ấm áp như trong một gia đình. ở xứ đảo chìm mà không bố bố con con thì hoang lạnh quá, man di mọi rợ quá, còn biết lấy gì ra làm văn vẻ. Thế là chính trị viên Thuận nghiễm nhiên trở thành ông bố, mặc dù nếu tính tuổi quân, anh còn thua cả cậu lính trẻ nhất đảo có bộ râu quai nón mà đám lính ở đây vẫn quen gọi là Tư Xồm. Thuận mới nhập ngũ đầu năm 1979. ấy là năm chiến tranh biên giới nổ ra ở cả hai đầu đất nước. Nhiều người lính đã phục viên, giờ lại tái ngũ. Thuận không phải lính cũ. Anh chuyển sang quân đội trong một đợt tổng động viên. Suốt những năm chống Mỹ, anh là thuyền trưởng tàu đánh cá Hạ Long. Bao nhiêu năm trời vật lộn với sóng gió, Thuận quen từng luồng lạch trên biển, thông thạo đến mức chỉ cần nhìn mây, anh biết được thời tiết nắng gió, ngửi mùi nước bốc lên vào lúc tinh mơ là phán đoán được luồng cá đi trong ngày. Một mình Thuận đã thành một cái Đài khí tượng di động. Khi người ta hiểu được biển cả thì biển cả không còn là nỗi bí hiểm đe doạ nữa. Đối với Thuận, dường như chẳng có gì bất ngờ. Mọi việc xảy ra đều đã được báo trước, đã treo sẵn trong trời mây, sóng nước kia rồi. Chỉ con người kiêu ngạo và lười nhác không thèm để ý đến thiên nhiên nên mới không biết mà thôi.
Thuận rất mừng khi vào quân đội, anh lại được về Bộ tư lệnh Hải quân, lại trở lại con tàu, ra canh giữ một hòn đảo nhỏ. Thế là người của biển vẫn không rời xa biển. Suốt một tháng ròng nằm chờ ở nhà khách Bộ tư lệnh, Thuận lần xuống thư viện, tìm những cuốn sách, những bài báo viết về Trường Sa để nghiên cứu, tìm hiểu. Anh biết Trường Sa là vùng đảo cát hoang dã. Thiên nhiên rất dữ dằn. Cát Trường Sa cũng rất đặc biệt. Nó chính là đá san hô tan ra. Bởi vậy, cát mặn và sắc. Dường như không cây nào chịu được. Ngay cả dừa và phi lao, từng quen với gió mặn, vậy mà đến Trường Sa cũng lụi dần, rồi cháy táp, đến nỗi có cảm giác chỉ cần đánh rơi một đốm tàn thuốc là chúng có thể cháy bùng lên thành những ngọn đuốc lớn. ở quần đảo bão tố này, chỉ có hai loại cây còn lay lắt sống được. Thực chất đó là loài cây dại mà lính gọi là cây Phong ba và cây Bàng quả vuông. Nhưng chả lẽ Trường Sa lại chỉ có thế thôi ư? Người ta có thể cải tạo được thiên nhiên không? Cứ có đất là sẽ có tất cả. Thuận cho khuân xuống tàu, mang ra đảo mấy chục bao đất, một cân hạt rau và một con lợn đã có chửa sẵn. Với số đất ấy, trộn với cát và phân lợn, anh có thể nuôi được mấy vạt rau. Rồi trong tương lai, Trường Sa phải có được những vườn khoai, vườn đỗ, rồi đàn lợn đàn gà. Nghĩa là có một cuộc sống bình thường, như mọi miền quê nghèo nhất trên trái đất.
Ra đến đảo, Thuận mới biết cái ước mơ giản dị ấy chỉ là chuyện hoang đường. Hòn đảo còn chưa có cả cát mặn. Nó vẫn chìm sâu trong nước. Theo cách tính của các nhà khoa học Hải Quân, phải một trăm năm nữa, dải đá san hô ấy mới nhô lên khỏi mặt nước biển để trở thành một hòn đảo bình dị. Nghĩa là phải một trăm năm nữa, hòn đảo mới chính thức ra đời. Thuyền trưởng Nguyễn Hoà nhìn Thuận, cười hô hố:
- Này ông Thuận ạ, ta cuốc bố nó cái nóc đài chỉ huy kia ra mà gieo rau!
Thuận dủm dỉm cười. Nụ cười như muốn bảo: "Thì hãy cứ đợi đấy". Ba ngày sau, có tàu ra đảo Sinh Tồn, Thuận gửi tặng cánh lính biển ngoài ấy mấy bao đất và gói hạt rau. Còn con lợn chửa thì anh giữ lại. Cứ như lời anh thì chỉ non tháng nữa là cô nàng sẽ "mãn nguyệt khai hoa". Nhưng rồi ngay hôm sau, cũng vì sóng dồi lắc dữ quá, con lợn mửa mật xanh mật vàng và nửa đêm thì cô nàng chuyển dạ đẻ. Đẻ non. Chỉ có thế mà thành một sự kiện trọng đại. Cánh lính đảo ào hết lên boong. Trên đó, y sỹ Hà Huy đang lúi húi khoác áo choàng trắng, làm "bà đỡ" bất đắc dĩ. Còn nhớ dạo tháng Mười năm ngoái, Huy đã lập được một kỳ tích mà không ai có thể ngờ được: Cậu ta đã cứu Thiêm thoát căn bệnh hiểm nghèo. Bữa đó cũng vào tầm nửa đêm như thế này, Thiêm bỗng đau bụng dữ dội. Đau đến vã mồ hôi, đến phát điên, phát dại. Thiêm nhay nát cả góc chăn mà cơn đau ở vùng thắt lưng vẫn không dịu ngớt.
- Có lẽ đau ruột thừa rồi!
Huy bàng hoàng kêu lên. Nếu ở đất liền, thì chỉ cần một ca phẫu thuật đơn giản. Nhưng ở đây lại không đơn giản như thế. Bởi đảo chìm bấy giờ chưa có bác sĩ, mới chỉ biên chế đến cấp... y tá. Chính trị viên Thuận đã điện về Bộ tư lệnh, điện cả ra đảo Sinh Tồn và những hòn đảo lân cận. Nhưng nếu nhanh, bác sĩ có tới được cũng phải mất hai ngày.
- Nguy lắm! Cậu chắc chắn là chết. Ruột thừa vỡ thì đến bố bác sĩ cũng không cứu được. - Huy nói thẳng với Thiêm. - Cậu toi là cái chắc rồi. Muốn thoát chết chỉ còn duy nhất một cách là mổ. Mà mổ thì khả năng thoát chết cũng chỉ có 0,01%. Nghĩa là hoàn toàn phụ thuộc vào tớ. Mà tớ thì... chưa từng mổ bao giờ...
Thế rồi rốt cuộc, Thiêm đành phải bám lấy sự sống với niềm hy vọng chỉ có 0,01%. Cậu cắn răng ký vào biên bản mổ, chấp nhận mọi sự rủi ro. Cánh lính trẻ trói chặt Thiêm vào chiếc giường sắt chống sóng, lấy nước muối sát trùng và Huy đã mổ cho Thiêm bằng... lưỡi dao cạo râu. Khi tàu cập được đảo thì mọi việc đã xong, Các bác sĩ chỉ còn làm mỗi việc: Sát trùng và khâu lại bằng chỉ tự tiêu. Ca mổ đã thành công. Nếu có chút sơ suất thì lại là chuyện sơ suất thẩm mỹ. Vết mổ không hề đẹp. Lẽ ra chỉ nên chích một chút thì Huy kéo ra đến... gang tay. Cậu ta đã mổ Thiêm như mổ... một con gà!
Sau ca mổ bất đắc dĩ ấy, Huy được lệnh về đất liền, theo học một lớp y sĩ cấp tốc. Bây giờ thì cu cậu đã trở thành một thầy thuốc chính hiệu, không còn là anh y tá chỉ mới biết tiêm, biết bôi i-ốt và phát thuốc cảm cúm xuyên tâm liên, một thứ thuốc ai uống cũng được. Huy nghe tim, bắt mạch, chẩn đoán bệnh. Bệnh nào thuốc ấy. Nói như thi sĩ Hai ùm, bây giờ Huy đã là người sang của thiên hạ. Người sang trông tướng mạo cũng khác. Nói năng thì đàng hoàng, đi đứng cũng ra tấm ra món. Chính trị viên Thuận rất yên tâm khi người sang của thiên hạ làm "bà đỡ" cho cơn vượt cạn của con lợn ỉ ở đảo chìm.
- Đấy, các cậu cứ ngẫm mà xem. - Thuận cười -Đây không còn là chuyện vặt vãnh đâu nhé! Lợn đẻ ở đảo chìm tự thân nó đã có một ý nghĩa rất sâu sắc...
- Vâng, đúng thế đấy, bố Thuận ạ! - Hai đón lấy ý chính trị viên. - Con lợn của ta đã làm được một việc phi thường, là chứng minh cho thế giới biết rằng, đảo chìm không phải là một xứ sở hoang dã, mông muội. Đảo chìm đã có sự sống.
- Hoan hô!
- Hoan hô thì phải vỗ tay đi chứ! Đề nghị đồng chí Tư Xồm mở đại tiệc bằng cách cấp thêm cho anh em mỗi người một ca nước ngọt, uống ngay tại trận...
- Không được! - Tư Xồm kêu lên. - Không thể cấp phát vô nguyên tắc như thế được! Lợn đẻ chứ có phải các cậu đẻ đâu. Tớ sẵn sàng chi cho con lợn hai lít nước ngọt nếu có lệnh của bố Thuận.
- Này, anh em tin cậu, bầu cậu làm quản lý, chứ không phải làm cái thằng bủn xỉn, vắt cổ chày ra nước đâu nhé!
- Thay ngay quản lý đi!
- Bầu lại quản lý đi!
- Không được đảo chính, gây lộn xộn!
- Thôi được rồi, tớ đồng ý mở đại tiệc. Nhưng đại tiệc tiết kiệm, không ảnh hưởng đến ngân sách đảo. Đề nghị chi cho lợn một lít rưỡi nước ngọt để nấu một nồi cháo bồi dưỡng đẻ. Còn tất cả chúng ta mặc quân phục. Không đứa nào được cởi truồng!
- Nhất trí hoàn toàn!
- Hoan hô!
Hàng chục ngọn đuốc rần rật bùng lên. Lửa reo ù ù trong gió biển. Con tàu tức tốc được nhổ neo, lượn ba vòng xung quanh đảo chìm. Sau đuôi tàu, biển rực một vùng lân tinh sáng choá. Trong đêm, nom nó quái dị và kỳ vĩ như một dải Ngân Hà đang cháy.
Và khi con lợn con đầu tiên còn nhớp nháp ướt vừa nho nhoe tòi ra khỏi bụng mẹ thì Hai ùm đã lậng cậng chạy lên đài chỉ huy. Rồi một lúc sau, đảo chìm đột ngột vang lên một hồi còi chào nồng nhiệt:
- Ủ... ủ... oà...
- Ủ... ủ... oà... oà... oà...
- Oà... oà... ủ... oà...
Chương X
                            Nàng An ta ra mê na
Gọi nàng An Ta Ra Mê Na, có lẽ bạn đọc tưởng đó là một Hoa hậu Hoàn vũ, một diễn viên điện ảnh Quốc tế hay người đẹp thời trang nào đó. Nhưng không, đấy chính là công dân đảo chìm, một nàng lợn ỉ xinh đẹp ra đời vào đúng cái đêm lịch sử đáng ghi nhớ ấy. Chị em nàng đông lắm, gồm mười hai sinh linh. Tất cả đều có tên hẳn hoi. Tên do Hai ùm đặt. Nghe sang trọng lắm. Mà cũng phải thế thôi. Đã là công dân thì đều bình đẳng trước vầng nhật nguyệt. Dân đảo chìm cơ mà. Không thể cứ quê mùa chân đất mắt toét mà phải đàng hoàng, sang trọng, có tầm cỡ quốc tế.
Từ ngày có thêm các công dân ấy, lính đảo chìm như có con mọn. Do đẻ non, lại phải chống chọi với sóng gió, bà mẹ lợn mất sữa. Thế là có bao nhiêu sữa hộp, cánh lính đều đục ra, dành hết cho lợn. Rồi sữa hết, lại hì hụi nấu cháo, nghiền cháo ra làm sữa cho lợn bú. Nhưng rồi chẳng có cái gì nằm yên được trong bụng lợn. Chúng nôn thốc nôn tháo. Khi không còn gì để nôn nữa thì chúng lả ra như những cái dãi khoai rồi theo nhau héo hàng loạt. Thoạt tiên là con lợn khoang đầu đàn, rồi đến bầy em nó và cuối cùng là bà mẹ lợn. Chỉ trong ba ngày, xứ đảo chìm đã phải chịu đến hơn chục cái tanglợn. May mà còn một sinh linh. Và cũng chỉ duy nhất có mỗi sinh linh ấy sống sót. Đó chính là con lợn cái bé bỏng, em út của cả đàn, mà Hai gọi là nàng An Ta Ra Mê Na.
Cho đến tận bây giờ, cánh lính biển vẫn không hiểu vì sao An Ta Ra Mê Na lại có một sức sống dẻo dai bền bỉ như vậy. Ngay cả những hôm động biển, sóng quật cấp 8 cấp 9, nhiều thủy thủ nằm bẹp dưới sàn tàu, hoặc vịn thành giường nôn thốc nôn tháo thì An Ta Ra Mê Na vẫn lón cón chạy chơi trên boong. Cô nàng dường như chẳng coi sóng gió ra gì. Những lúc như thế, cô nàng lại ăn khoẻ. Ăn rất ngon miệng. Mà nào có phải cháo, sữa hay sơn hào hải vị gì. Toàn cơm thừa canh cặn của lính. Đến nỗi Tư Xồm đâm ngờ vực: "Này, không khéo nó không phải lợn đâu. Nó là con hồ li tinh đấy. Nghĩa là lợn hoá thành tinh. Trông cứ ghê bỏ mẹ. Rồi không khéo có ngày nó ăn thịt cả chúng mình".
Nói nghe đến phát khiếp. Nhưng chẳng ai tin. Cánh lính biển lại thấy quý An Ta Ra Mê Na. Từ ngày có cô nàng, hòn đảo luôn vui nhộn. Thỉnh thoảng lính lại bơi ra tàu, chơi với An Ta Ra Mê Na. Thì còn có việc gì để mà làm nữa cơ chứ. ở những hòn đảo cát, dẫu sao còn có cát để vầy. Suốt ngày, lính đào khoét công sự. Đào sâu đến ngang bụng.     Sáng hôm sau, gió lại lấp cát xuống. Rồi sau một đêm nữa, cát đã san phẳng lỳ. Chẳng còn thấy chiến hào đâu nữa. Đảo trở lại thời hoang sơ nguyên thuỷ của nó. Rồi lính lại hì hụi làm con dã tràng moi vét cát lên. Cứ như thế quanh năm kéo co với gió. Một trò chơi bất tận. Không có người thắng, cũng chẳng có kẻ thua. Mệt mà vui. Vì dẫu sao cũng còn có việc để làm. Còn ở đây thì có việc gì? Suốt ngày bó gối nhìn trời nước. Chán thì lại lần ra tàu. Con tàu trực chiến thực chất cũng chỉ là một hòn đảo nổi, hòn đảo di động. Rốt cuộc cũng vẫn lại quanh quẩn thế thôi. Bởi vậy, có An Ta Ra Mê Na, hòn đảo cũng đỡ tẻ. Lính có thêm bao nhiêu việc làm. Bế cô nàng đi tắm. Dạy cô nàng tập bơi. Rồi chải lông. Rồi bắt rệp. Rồi tỉa tót, trang điểm cho  nàng. An Ta Ra Mê Na đã quen dần đám lính đảo, có thể đùa giỡn với bất kì người lính nào. Nhưng xem chừng, cô nàng có vẻ thân Hai hơn, có lẽ vì Hai thích những trò nghịch ngợm. Hai hào phóng tặng nàng cái áo mới nguyên. Anh chàng còn xẻ ra, tỉ mẩn khâu lại thành bộ cánh mới vừa khíp với tấm thân tròn ủng của nàng. Hai chít được cả eo lưng cho nàng. Trên cổ nàng, Hai còn đính thêm một cái dải yếm, như trang phục của một thủy thủ thực thụ. Bây giờ thì cô nàng cũng diêm dúa, cũng xúng xính quân phục Hải quân, chẳng kém gì cánh lính cựu ở đảo chìm. Hai còn tập cho nàng đi bằng hai chân sau. An Ta Ra Mê Na có vẻ rất khoái khi được Hai túm chân trước, dắt đi. Nàng dặt dẹo lê từng bước theo Hai. Rồi từ đấy, hầu như chiều nào trên boong tàu, người ta cũng thấy nàng cùng Hai lậng cậng nhảy điệu va xi lô với lời ca nghe vừa lạ tai, vừa thật là kỳ quái:
- Va- xi- lô
Cà ri cứ oà tồ tồ
Cha cha cha
ở đây có cha con ta
Này trời mây, này nước non đẹp thay
Chẳng ai biết được chúng ta đang
ở đây
Va- xi - lô
Cà ri cứ oà tồ tồ
Cha cha cha
Chẳng ai hơn cha con ta...
Chương XI
Cuộc biểu diễn
không sân khấu
Hai Ùm bảo tôi:
- Anh Khoa ạ, nói thật với đại ca, em đọc không được nhiều. ở đây làm gì có sách mà đọc. Biết được cuốn nào thì cũng là hồi còn trong đất liền. Nhưng những truyện kể về lợn mà em đọc được thì chẳng có truyện nào tử tế. Trong bộ Tây du ký, anh chàng Trư Bát Giới chỉ là gã ngu si đần độn và phàm tục. Trong truyện dân gian của ta, có con lợn bị giết thịt, khi chết xuống âm phủ, cậu chàng tìm đến vua Diêm Vương kiện về cái chết oan ức của mình. Rồi cậu kể rất tỉ mỉ. Đầu tiên là bị chọc tiết. Rồi cạo lông. Rồi xả thịt ra, ướp hành tỏi, cho vào chảo rán, phi cho thơm lừng. Thế là vua Diêm Vương kêu ầm lên: "Thôi thôi, đừng có kể nữa nhé. Kẻo tao thấy thèm quá!" Thế có khổ cho con lợn không! Còn ngoài đời, con lợn chẳng được coi là cái quái gì cả. Mỗi khi tỏ ra khinh miệt một ai đó, người ta lại rủa: "Cái thằng ngu như lợn!". Hoặc "Cái lão bẩn như lợn!". Thế thì oan cho con lợn quá! Thực ra lợn đâu có bẩn, mà nó cũng chẳng ngu. Thậm chí, nó còn rất thông minh nữa kia. Nó biết tất cả mọi chuyện đấy. Chỉ mỗi tội là nó không nói được tiếng người thôi. Mà tiếng của nó thì loài người lại không thể hiểu được. Lấy ai phiên dịch bây giờ? Thế mới khổ.
Hai khẽ xuýt xoa, vẻ thương cảm. Rồi như để chứng minh cho sự thông minh, sạch sẽ của con lợn, Hai ngửa cổ gọi, giọng ngân nga như hát:
- An ta ra mế...ê...ê... na...a...a...
Có tiếng lạch cạch sau trục neo. Rồi con lợn khoang lậng cậng chạy ra. Toàn thân nó gói kín trong bộ quân phục lính thủy. Trông rất ngộ nghĩnh.
- Ra chào bác Khoa đi, con!
Hai vỗ vỗ hai bàn tay vào nhau. Tôi giãy nảy:
- Ói thôi thôi! Tớ là không có anh em bác cháu gì với lợn đâu nhé!
- Thế thì chào nhà thơ đi. Nào, bắt đầu nhá. Em... chào... nhà... thơ...!
Hai lại kéo dài giọng. Con lợn bỗng nhảy cỡn lên, đứng chấp chới bằng hai chân sau, rồi nó quay tròn nửa vòng, soài hai chân trước về phía tôi, chúi rạp đầu xuống mặt boong, điêu luyện và yểu điệu như một diễn viên xiếc trên sân khấu.
- Tuyệt vời! - Hai reo lên, rồi lại vỗ tay. - Tiếp tục biểu diễn nhé. Tiết mục thứ hai: nhào lộn. Nào bắt đầu. Một - Hai - Ba...
Con lợn lăn mấy vòng trên boong tàu. Lăn bên phải, lăn bên trái, rồi nằm ngửa trên mặt boong, giơ cả bốn chân lên trời vẫy vẫy. Cánh lính trẻ vỗ tay rôm rốp. Con lợn có vẻ càng khoái tợn. Nó nhảy cỡn lên, loạng choạng đứng bằng hai chân sau, rồi nó ngoẹo cổ, nhếch mép. Trông rất ngộ nghĩnh và quái đản. Hai bảo đấy là nụ cười bí hiểm. Nụ cười La Giô-công.
Hai bế xốc con lợn lên, rồi quay tròn mấy vòng, vừa quay vừa nhảy lò cò. Tư Xồm lắc đầu quầy quậy:
- Điên hết rồi!
- Xem con lợn cũng vui đấy chứ!
- Vui cái khỉ gì! - Tư Xồm lẩm bẩm bảo tôi. - Anh hãy nhìn lại chúng đi. Rõ là một lũ rồ dại. Lợn thì loè xoè quần áo mớ bảy mớ ba. Người lại cởi truồng nồng nỗng. Thật chẳng còn ra cái thể thống gì!
Chương XII
Sóng gió không từ biển
         Tư Xồm thực sự khó chịu với con lợn. Khó chịu từ rất lâu rồi. Đối với Tư, chẳng có nàng An Ta Ra Mê Na nào cả. Nó chỉ là một con lợn bắng nhắng. Một con đười ươi đã hoá thành tinh, luôn quấy nhiễu, gây mất trật tự, làm lộn xộn cả đảo chìm. Muốn trở lại yên ổn, chỉ còn một cách là giết quách nó đi. Tư Xồm đã nhiều lần đề nghị chính trị viên Thuận cho anh em một bữa cải thiện. Hai ùm lại càu nhàu: "Đúng là thằng bần tiện! Việc gì mà phải thịt lợn! Không có con lợn thì còn biết lấy gì ra làm văn vẻ. Thằng cha xung khắc với lợn, vì nó cầm tinh con hùm! Hùm nào thấy lợn mà chẳng muốn vồ. Cu cậu thèm thịt lợn cũng phải!"
Nói thế thì thật oan cho Tư. Tư đâu có phàm tục như vậy. ở đây khem khổ quen rồi. Tư cũng đã quen với sự thiếu thốn. Cậu ta sẵn sàng nhường cơm sẻ áo cho bất cứ ai. Đồ đạc, vật dụng tư trang của Tư, ai cần, cứ việc lấy dùng. Tư không hề tắt mắt, tư túi. Chính vì thế, cánh lính đảo mới tin Tư, mới bầu Tư làm quản lý, canh giữ cả một kho nước ngọt của đảo. Sáng nào Tư cũng phát nước ngọt cho lính. Mỗi người hai gáo sắt. Mỗi gáo là một lít. Tư đong nước ngọt thiện nghệ đến mức không hề rớt ra ngoài một giọt nhỏ. Thoạt đầu, phi nước ngọt để ngay trên mặt boong, chỉ đậy cái nắp sắt bình thường. Nhưng rồi có đận, chỉ sau một đêm, thùng nước ngọt tự dưng cạn đến trơ cả đáy. Kiểm tra, thấy thùng không rò rỉ. Vậy thì nước ngọt biến đâu? Tư ngờ lắm. Cậu bí mật kiểm tra thì thấy trong ba-lô thằng lính nào cũng có một cái ống nhựa. Nước ngọt bay qua đấy chứ còn đâu nữa. Đêm, đợi Tư ngủ say, cánh lính bò lên boong hút trộm. Như thế có khác gì rồng cuốn. Tư chốt béng nắp sắt bằng cả một cái khoá Việt-Tiệp to đùng. Thỉnh thoảng, cậu lại đáo qua, lấy tay vỗ vào phi nước, nghe tiếng vỗ, biết nước còn hay đã "bay hơi". Tư ghét con lợn là ghét cái thói đỏng đảnh rởm đời của nó. ở đây, lính còn phải tắm nước biển, uống nước biển, độn thêm nước biển để nấu cơm. Có chút muối, cơm cứ chuồi chuội còn nguyên cả lõi gạo. Bát cơm rời rông rổng. Chẳng hạt nào dính với hạt nào, ăn sậm sật, chát xít. Lính tráng còn phải sống như thế vậy mà con lợn cứ "đụng" chút nước mặn là đi ỉa tồ tồ. Rõ thật con nhà lính, tính nhà quan. Lại phải thửa một suất riêng cho lợn, quá bằng chăm người ốm. Đã vậy, mỗi ngày còn phải chi thêm cho nó bốn lít nước ngọt nguyên chất nữa để làm suất uống. Bốn lít nước bằng tiêu chuẩn của hai thằng lính biển chứ có ít đâu. Một ngày bốn lít. Mười ngày bốn mươi lít. Một tháng một trăm hai mươi lít. Một năm là tấn rưỡi nước ngọt. ối giời đất ơi! Như thế nó đâu phải là lợn. Nó là con giặc cái, là cái máy ngốn nước ngọt rồi!
Phải tiêu diệt con lợn thôi. Không còn cách nào khác. Tư Xồm lại nài nỉ chính trị viên Thuận. Thuận cười điềm đạm:
- Mình hiểu thiện chí của cậu, là muốn tiết kiệm nước ngọt dành hết cho anh em. Nhưng nếu chỉ vì chuyện nước ngọt mà giết mất con lợn thì uổng quá. Hay là ta giải quyết thế này: Phần nước ngọt phải chi cho lợn, cậu cứ trừ luôn vào tiêu chuẩn của mình. Thế được không?
Tư Xồm ngồi nghệt ra. Lại đến cả thế nữa! Đã loại trừ con lợn là để dành nước ngọt cho lính, bây giờ suất nước ngọt hư hao ấy lại dồn hết vào một người, mà người đó lại là bố Thuận, người đứng đầu cả hòn đảo? Ai dám làm thế cơ chứ. Rốt cuộc, chẳng có gì xảy ra. Con lợn vẫn lăng xăng, nhắng nhít. Mỗi ngày, bốn lít nước ngọt vẫn phải chi cho nó. Tư bực lắm mà chẳng có cách nào trừ khử được con ôn vật.
Thế rồi, thật bất ngờ, một vận may đã đến với Tư. Vâng! Phải nói đúng là một vận may, vì trước đó Tư đâu có nghĩ tới. ấy là khi con lợn đến kỳ động đực, xứ đảo chìm mới thật sự lộn xộn. Nếu lợn đực thì thật đơn giản. Chỉ nháy mắt là Huy thiến xong. Nhưng lợn cái thì chịu. Cu cậu chẳng biết lách mũi dao vào đâu. Đêm xuống ngột ngạt. Buồng thủy thủ nóng hầm hập như cái lò nướng bánh mì. Cánh lính trẻ đành kéo nhau lên boong, nằm ngả ngớn hóng gió. Đêm, con lợn cứ chịn cái đít ướt nhoét và tanh lòm vào mặt lính.
- Ơ cái con này, láo nhỉ! Mặt ông chứ có phải là cái bờ tường của nhà mày đâu!
- Cút ra ngay!
- Ông thì cho một chưởng bây giờ! Cút!
Nhưng con lợn còn biết gì nữa? Nó như đã hoá điên, hoá dại. Rồi nó cuống cuồng nhảy bổ cả xuống biển. Thế là cả hòn đảo nháo nhác. Tàu rúc còi báo động. Bao nhiêu đèn pha trên tàu đều được huy động, rọi loà loà xuống mặt biển. Những gã bơi giỏi nhất của đảo đã được sung vào đội cứu nạn. Mãi đến nửa tiếng sau, Hai ùm mới lóp ngóp ôm con lợn leo lên mặt boong. Cả người và lợn đều run bần bật. Tảng sáng, Tư Xồm đã đập cửa buồng chính trị viên.
- Vào đây, có chuyện gì thế cậu?
Chính trị viên Thuận ôn tồn hỏi. Anh biết Tư đến vì việc gì rồi. Anh cười:
- Lại chuyện con lợn phải không? May mà còn tìm được. Đêm qua biển cũng lặng...
- Nhưng không thể nuôi được nó đâu, thủ trưởng ạ! Trước sau rồi cũng mất thôi.
- Mình nghĩ là qua kỳ động đực, con lợn sẽ trở lại trạng thái bình thường. Chẳng có gì phức tạp đâu.
- Tôi nói thực điều này, thủ trưởng đừng giận nhé. Tôi có cảm giác thủ trưởng không hề thương lính. Thậm chí thủ trưởng coi tính mạng lính chẳng còn ra cái gì, có khi không bằng cả một con lợn!
- Cậu nói gì lạ thế? Hả? Cậu vừa nói gì? - Thuận nóng bừng mặt.
- Thì đó, thủ trưởng ngẫm coi. Nếu đêm qua có cá mập thì anh em sẽ ra sao nào? Chả lẽ chỉ vì một con lợn nhép mà phải đổi đến mấy mạng lính ư?
Thuận bàng hoàng trước câu nói cứ tỉnh bơ của Tư Xồm. Biết chính trị viên đã núng thế, Tư dịu giọng:
- Tôi biết thủ trưởng quý con lợn, quyết giữ gìn con lợn cũng là vì anh em thôi. Quả thật ở hòn đảo này, có con lợn cũng vui. Nó như niềm giải trí. Nhưng lợi bất cập hại. Thủ trưởng đừng nghĩ tôi cáu bẳn với con lợn chỉ vì mấy ngụm nước ngọt. Ai đi so đo miếng ăn với con lợn làm gì. Nhưng tôi nghĩ là ta khó mà nuôi được nó. Đến kỳ động đực nguy hiểm lắm. Cứ nghĩ đến đêm qua là tôi thấy rùng mình. Vùng biển này đâu phải không có cá mập...
- Thôi, cậu đừng nói nữa. Đủ rồi! - Thuận cắt ngang lời Tư Xồm - Để cho mình cân nhắc thêm chút nữa đã. - Thuận khẽ thở dài. - ừ, mà không khéo đến phải thịt con lợn thật!

Chương XIII
Chuyện trên boong
Thế là số phận của con lợn đã được định đoạt. Sự việc diễn ra nhanh quá. Nhanh đến nỗi ngay cả Tư Xồm, người chủ mưu bày đặt ra cái chuyện này, cũng còn thấy ngạc nhiên, không ngờ nó lại diễn ra đơn giản đến như vậy. Còn đám lính trẻ thì bàng hoàng, sửng sốt vì không thể tin bố Thuận lại có quyết định đột ngột như vậy. Hai ùm và Tư Xồm gườm gườm nhìn nhau như hai kẻ thù địch. Hai ùm biết sự việc bắt đầu từ đâu. "Chắc mày lại ton hót gì với bố Thuận, phải không?" Hai hỏi bộp Tư Xồm. Tư thủng thẳng: "Thì tốt nhất cậu cứ tìm bố Thuận mà hỏi!" Chính trị viên Thuận chỉ mủm mỉm cười. Nụ cười có gì như là gượng gạo: "Thôi, cũng đừng băn khoăn nữa, Hai ạ! Tao thấy thằng Tư nó nói đúng đấy. Không thể nuôi được con lợn đâu. Tao cũng không muốn giết con lợn. Nhưng chẳng còn có cách nào!" Thế là toi rồi, An Ta Ra Mê Na ơi! Bây giờ thì không còn ai cứu đượcem nữa rồi! Hai bỗng ứa nước mắt. Chính cậu cũng không ngờ mình lại có lúc yếu đuối đến mức buồn cười và dớ dẩn như vậy. Không khí thật nặng nề. Hòn đảo như đang đứng trước một tai hoạ không thể tránh khỏi.
Nhưng rồi sự việc cũng chóng qua đi. Vì dẫu sao nó cũng chỉ là một con lợn như bao con lợn khác. Vậy thì có gì mà phải vân vi. Cánh lính trẻ lại háo hức trước niềm vui mới. ấy là bữa liên hoan sẽ tổ chức vào ngày mai. Kể cũng hay. Đã lâu lắm rồi, đảo chưa có được bữa ăn tươi. Suốt đêm, hầu như cánh lính trẻ không ngủ. Họ tíu tít bàn nhau nên ngả những món gì. Thịt lợn luộc chấm muối ớt thì dễ rồi. Nhưng chả lẽ tiệc lại chỉ có mỗi món như thế? Bày đặt thêm cũng khó. Vì ở đây, chẳng có gì khác ngoài muối và ớt khô. Giả cầy thì không có riềng. Tiết canh lại thiếu lạc. Hay quạt thêm tí chả nướng? ừ phải rồi! Có lẽ phải thêm món chả nướng nữa mới xôm trò. Đấy, cánh lính cứ thế mà âm i, mà ríu rít. Con lợn dường như cũng linh cảm thấy nỗi bi thảm đang đến mỗi lúc một gần, nó lậng cậng chạy hết xó này đến xó khác, cọ lưng vào chân người này, dũi mõm vào tay người kia. Hình như cô nàng đang cố tình xun xoe nịnh bợ để lấy lòng mọi người. Nhưng nịnh bợ xun xoe gì thì cũng cứ chết!
Trên mặt boong, chảo nước làm lông đã sôi sùng sục. Huy đang quèn quẹt mài dao. Hai ùm nằm liệt trong lều bạt. Cậu ta định bụng không lên boong. Hay gì cái trò thịt lợn mà phải xem. Nhưng rồi không hiểu sao, cậu ta lại thấy bứt rứt, không thể nằm yên được. Chẳng biết sự thể sẽ ra sao? Hai ùm bật dậy, lao bóp xuống biển, bơi ra tàu. Trên mặt boong, cánh lính kéo đến đông nghịt. Con lợn đã bị lột hết quần áo, bị dằn ra sàn tàu.
- Này, phải tìm đúng tia máu hẵng chọc tiết. Chọc mà nó không chết là phải tội đấy!
- Thôi! Tao hoá kiếp cho mày, để mày làm kiếp khác sướng hơn nhé!
- Đưa cái giẻ ướt đây! Thế, được rồi!
Huy lấy cái giẻ, lau đi lau lại cổ lợn cho sạch để tiết đỡ bẩn. Rồi lấy mũi dao gạt lông lợn để chọn điểm thích hợp nhất kết liễu đời con vật. Nhưng khi mũi dao vừa chạm vào cổ lợn, thì con lợn lật mình nằm ngửa ra, rồi đưa cả bốn chân lên trời vẫy vẫy rối rít. Hai Ùm kêu ầm lên:
- Này, nó chọc tiết mày đấy, tưởng đùa à mà còn làm trò?
Con lợn lại ngoẹo một bên cổ, nhếch mép như là cười, một nụ cười ngô nghê và bí hiểm mà Hai vẫn quen gọi là nụ cười La Giô-công. Rõ ràng là cô nàng vẫn tưởng cánh lính đùa cợt, nên lại tiếp tục diễn trò. Rồi cô nàng lại nhảy cỡn lên, quay nửa vòng, rồi vục mõm xuống, choãi hai chân về phía trước như động tác chào lạy. Huy ngẩn người nhìn con lợn. Đám lính cũng bàng hoàng nhìn nhau. Con lợn vẫn biểu diễn, vẫn tiếp tục làm trò. Xưa nay, nó vẫn quen như vậy. Và cho đến tận giây phút này, con lợn vẫn là niềm vui của cả hòn đảo. Vậy thì nó có tội tình gì mà người ta nỡ giết nó? Ngày nào, nó cũng phải chịu sóng gió như lính. Ăn cơm thừa canh cặn của lính. Có tốn chút nước ngọt thì đáng là bao? Vậy mà chỉ vì tí nước ấy, người ta nỡ giết nó ư? Huy vứt toạch con dao vào đống dây neo:
- Thôi, đứa nào chọc tiết lợn thì chọc nhé, còn tớ thì tớ chịu!
Cánh lính cứ đùn đẩy nhau. Chẳng ai cầm nổi con dao chọc vào cổ lợn, kể cả Tư Xồm. Buổi chiều, người ta lại thấy Hai ùm dắt con lợn bước lậng cậng trên mặt boong. Giọng Hai ùm sừng sộ:
- May mà bố Thuận đã ân xá. Chỉ tí tẹo nữa thì đời mày tàn rồi! Tàn là tàn thế nào? Là nó chọc tiết mày đấy. Chọc là chọc vào cái cổ này này. Rồi nó ăn thịt mày. Nhai tóp tép. Rồi mày sẽ thành cứt. Thành cứt mà đã yên được à? Mày sẽ trôi lềnh bềnh trên biển. Rõ chưa? Rồi mày lại nằm trong bụng cá. Mày đi lang thang khắp các gầm trời. Thế mà lại còn nhe răng ra cười à?
Hai ùm lại tung con lợn lên, quay một vòng. Rồi lại túm hai chân trước của con lợn, nhảy điệu nhảy quen thuộc với lời ca rất đỗi kỳ quái:
- Va- xi- lô
Cà ri cứ oà tồ tồ
Cha cha cha
ở đây có cha con ta
Này trời mây, này nước non đẹp thay
Chẳng ai biết được chúng ta đang
                                     ở đây
Va- xi- lô
Cà ri cứ oà tồ tồ
Cha cha cha
Chẳng ai hơn cha con ta...

     Chương XIV
        Bão biển

Buổi chiều, không hiểu sao, bầy chim biển chui cả vào lều bạt. Chúng rúc vào chăn, chen lấn với lính. Căn lều bạt trở nên chật chội, ướt át và hôi mù như ổ chó đẻ. Trên tầng giường, Hai ùm nằm ngáy như sấm. Có lẽ mấy hôm liền căng thẳng vì chuyện con lợn, cu cậu mệt rã rượi. Tôi cũng thấy buồn ngủ. Hai mắt nặng trĩu, cứ luôn chực nhíp lại.
Tiếng động lịch kịch dưới chân sàn làm tôi thức giấc. Hình như có ai gõ gõ mái chèo vào cột lều. Tôi nhìn qua mặt sàn. Hoá ra là chính trị viên Thuận. Anh vừa đánh xuồng vào.
- Này, ra tàu ngay! Ra tàu ngay đi!
- Có chuyện gì thế, bố Thuận?
- Không thấy gì cả à? Nhìn kia kìa!
Nói rồi, Thuận chỉ mống ra biển. Mặt biển lặng tờ như cái ao làng. Phía chân trời ậc lên một tầng mây đỏ sọc như màu máu chó. Biển tanh ngặt. Chết cha. Bão rồi! Thảo nào mà lũ chim biển chui hết vào lều, rúc cả vào chăn lính để ẩn nấp. Vậy mà sao mình lại không để ý nhỉ?
Cánh lính vận chuyển vũ khí, đồ đạc ra tàu. Căn lều vẫn tồng tềnh, trống hoác, nhưng đến khi di chuyển mới hay lính ta cũng giàu có lắm, chứ chẳng phải ít của. Ngổn ngang trăm thứ bà giằn, cứ lỉnh cà lỉnh kỉnh. Nhặt cái này lại thấy tiếc cái kia. Không rõ đến chuyến xuồng thứ mấy thì biển đã cuồn lên những đợt sóng lớn. Mái chèo nặng trịch, bì ra. Dường như cái xuồng không còn tuân theo mái chèo của lính nữa. Khi mũi xuồng vừa chạm thành tàu, Hai ùm chợt bàng hoàng kêu lên:
- Thôi chết tôi rồi! Chết rồi!
- Có chuyện gì thế?
- Còn ba-lô và đồ đạc của thằng Thiêm!
Ừ, phải rồi! Đúng là còn "tài sản" của Thiêm. Vậy mà tại sao cả mấy thằng đều không để ý. Mà cũng phải thôi. Cái bát sắt, đôi đũa và chiếc ba lô lại treo mãi trên nóc bạt. Trong lúc cuống cuồng vội vã, ai còn để ý đến cái nóc bạt làm gì. Tôi bảo Hai:
- Không sao đâu, Hai ạ. Mình thấy mọi thứ chằng buộc cẩn thận lắm!
- Đâu có. Em ngoắc cái ba-lô lên con sỏ sắt cọc lều chứ nào có buộc chằng gì. Thằng Thiêm chỉ có mỗi chút đó thôi. Nếu mất, biết nói gì với mẹ nó, cực thế. Vả lại, còn một tí tư trang ấy, cũng có thể cho vào cái tiểu sành, đắp cho nó ngôi mộ. Vẫn còn chút gì của nó để có thể thắp cho nó một nén hương - Hai nói như van vỉ. - Anh lên tàu đi. Em quay lại...
- Không được đâu. Không kịp nữa rồi!
- Thôi, đừng lằng nhằng nữa! Anh lên tàu đi!
- Hay để mình cùng quay lại...
- Không được! - Hai quắc mắt lên, mặt tím ngắt. - Đã bảo đừng có lằng nhằng nữa. Có ông anh chỉ nặng gánh thêm chứ béo bở gì. Lên tàu!
Hai nói như ra lệnh, rồi ghì xuồng cao-su. Con tàu chao lắc. Chiếc xuồng lại càng chao lắc dữ dội. Nhễ nhại lắm, tôi mới bám được chiếc thang dây, leo lên tàu.
- Hai, lên tàu đi! - Tôi nói như khóc.
- Không được! Không thể được! Nhanh thôi mà. Em sẽ quay lại ngay. Không sao đâu!
Nói rồi, Hai chém nước lao đi. Biển đã cuồn lên những đợt sóng lừng lững như những tấm lưng trâu. Chiếc xuồng cao-su của Hai mất hút trong sóng. Con tàu bắt đầu òng ọc nhổ neo. Tôi gào lên:
- Còn thằng Hai. Anh Thuận ơi, còn thằng Hai nữa!
- Còn người! Còn một người nữa!
Tiếng lính nhao nhao. Gương mặt Thuận bỗng trắng bệch như bụng cá chết. Anh khoát tay ra hiệu cho thuyền trưởng dừng lại. Nhưng con tàu không thể dừng được, vẫn phải nhổ neo, bởi chỉ chậm chút nữa, con tàu sẽ rứt đứt neo và nó có thể sẽ bị sóng ném vào ghềnh đá san hô như một viên sỏi. Biển tối mù mịt. Bây giờ thì không chỉ chiếc xuồng của Hai mà cả cái lều bạt cũng không còn thấy đâu nữa. Con tàu quần lượn quanh đảo để tìm Hai. Nhưng rồi vô vọng và bất lực. Với sức sóng này, làm sao Hai có thể đánh xuồng đi được. Ngay cả con tàu mấy ngàn tấn này cũng chỉ như một chiếc lá tre mỏng mảnh. Loanh quanh một hồi, rồi con tàu cũng đành phải gối sóng để tránh bão. Tránh ngay trên biển bão. Thuận trực tiếp cầm lái bên cạnh thuyền trưởng Hoà. Anh vừa lái, vừa ồ ồ khóc như một đứa trẻ. Kinh nghiệm bao nhiêu năm đi biển cho anh biết số phận bi thảm của Hai ùm sẽ kết cục ra sao? Anh vừa tránh sóng, vừa cố lượn qua những vùng biển mà anh đoán cái xuồng của Hai có thể trôi dạt tới. Từng đợt sóng bạc đầu đổ tràn qua mặt boong. Có trận sóng phủ lên cả nóc đài chỉ huy. Chân vịt khua reng rẻng trong không khí. Mặt biển tối sầm. Gió đánh thốc từng đám mây trắng đục xuống mặt nước đen sịt. Tôi lăn lông lốc trên sàn tàu. Đám lính trẻ cũng nhào lộn trong những bãi nôn tanh lợm. Rồi rầm một tiếng dữ dội. Tôi thấy mình bay vút như một viên đạn, đầu lao choác vào thành tàu tê dại. Nước biển mặn chát trùm lên người tôi. Vỡ tàu rồi! Trong đầu tôi chợt loé lên một ý nghĩ kinh hoàng như vậy. Thế là hết. Hết tất thảy. Tôi thấy mình mụ đi. Trong khoảnh khắc âm âm u u, tôi còn kịp nhận ra mình cùng với con tàu lao hun hút xuống đáy biển tối thẳm, trơn lầy và lạnh ngắt...
Chương XV
Biển mặn

-, anh ấy đã tỉnh rồi kìa!
- Tỉnh rồi! May quá! Chút nữa lại mang tiếng đảo chìm giết chết một thi sĩ tài năng đang hứa hẹn! - Tư Xồm cười dủm dỉm. - Huy này, mày xem vết thương anh ấy có nguy hiểm không?
- Không sao. Bố ấy chỉ bị choáng khi va đập mạnh. Còn xa ruột lắm!
- Bây giờ thì ông anh có muốn chết cũng đếch chết được. - Tư Xồm lại cười. - Này, mà giá như ông anh ngỏm béng luôn ở đảo chìm này có khi lại hay đấy nhé. Biết đâu có người lại thấy tiếc ông anh, lại nói ông anh là một tài năng đang phát triển rực rỡ. Còn ông anh sống ý à... em nói thật, đại ca đừng tự ái nhé, ông anh cũng nhem nhuốc lắm, hoàn cảnh lắm, chẳng hơn đếch gì lính nhọ đít chúng em...
Tôi chống tay vào sàn tàu, ngồi dậy. Đầu óc cứ ong ong, váng vất. Bụng vẫn cồn cào, thoáng đặc, thoáng rỗng. May mà con tàu không bị vỡ. Có lẽ chiều qua nó lao vào một vách sóng nào đó chăng.
- Hai đâu? - Tôi hỏi.
- Tàu đang đi tìm nó mà! Đang về đảo chìm đấy.
- Thế hôm qua đi những đâu?
- Xa. Tàu tránh bão thì cứ phải gối sóng, chạy ngoắt ngoéo chữ chi. Chạy xa lắm, cách đảo hàng trăm dặm biển.
- Hai ơi! - Tôi thoáng kêu lên.
- Không sao đâu, anh Khoa ạ! Có lẽ nó về lều bạt rồi. Bố Thuận bảo, nếu nó tới được lều, cột chặt mình vào cọc lều thì may ra có thể thoát!
- Nhưng đã chắc gì nó vào được lều bạt?
- Thì chính anh bảo chiều qua nó đánh xuồng vào lều bạt mà...
- Không! Nó trở lại lều để cứu đồ đạc của thằng Thiêm. ừ, mà tại sao chiều qua mình lại không kiên quyết giữ nó lại...
- Không sao đâu anh Khoa ạ. Thằng này như quỷ biển. Nó bơi bợm lắm. Giả sử chiều qua, cu cậu không vào được lều, thì cứ ôm chặt cái xuồng cao-su, quấn người vào dây xuồng là cũng không thể chết được. Chúng ta sẽ tìm thấy nó...
Tôi gượng leo lên boong. Mặt biển bạc phếch. Những đám mây bị chẻ tướp đuôi ngựa, bay vun vút như khói. áp thấp nhiệt đới nảy sinh từ quần đảo bão tố này thường xảy ra bất ngờ và kết thúc cũng rất nhanh. Khi vào đến đất liền, có thể nó quẫy lên thành những trận bão lớn. Còn ở đây, biển đang dần trở lại cái dáng vẻ âm u bí hiểm muôn đời của nó. Con tàu vẫn đang xé sóng lao về phía đảo chìm. ở chân trời xa, đã thấy thấp thoáng những bóng chim biển bay nháo nhác.
Mãi đến sâm sẩm tối, con tàu mới buông được neo. Chính trị viên Thuận và tôi cùng với Tư Xồm đánh xuồng dìu nhau vào lều bạt. Nhễ nhại lắm, chúng tôi mới vượt qua được mép san hô. Vùng đảo hoang lạnh một màu khai thiên lập địa. Chiếc lều bị gió cuốn mất tấm bạt, tua tủa giương lên nền trời xám đục những rảnh xương sắt cong queo, nom rờn rợn như một con cá voi khổng lồ đã bị rỉa hết thịt.
- Có người! Thằng Hai! Đúng là thằng Hai kia rồi! Anh nhìn rõ không?
Tư Xồm reo to, hồ hởi như người bắt được của. Chúng tôi thấy nhẹ bẫng người, nhìn theo ngón tay Tư. Trong ráng chiều nhập nhoạng, một bóng đen trùi trũi đang lom khom ngồi trước cửa lều. Hình như cu cậu đang ỉa. Mà ỉa bậy. Đấy có phải chỗ ỉa đâu. Phải cho thằng cha này một chưởng mới được. Đây là chỗ anh em vẫn thường tắm táp, vẫn thường rửa bát đũa xoong chảo. Hừ, cái thằng! Tư quát lên:
- Này, sao lại bĩnh ở đó, hả!
Bóng đen thoáng rùng mình quay lại. Tôi bỗng sởn tóc gáy. Có tiếng đập đánh rào một cái. Rồi bóng đen bay chéo qua đầu chúng tôi, thả xuống đảo chìm một tiếng kêu khàn đặc, khê rợn:
- Goà...goà...
Thì ra đó chỉ là một con ó biển. Tôi lập bập bám thang dây, leo lên lều. Căn lều trống hoác, ướt nhoẹt. Đũa bát của Thiêm đã bị gió ném đi. Nhưng chiếc ba-lô lép kẹp sũng nước thì vẫn lủng lẳng chao lắc trên cái kèo sắt cột lều. Như thế có nghĩa là Hai không vào được lều bạt.
- Hai ơi!
Tư Xồm bỗng nấc lên. Thế là lại thêm một người lính nữa chết ở đảo chìm. Người đó tại sao không phải tôi, mà lại là Hai, con cá kình của đảo? Cầu mong trước khi nước khép mặt, Hai được nhìn thấy cánh chim hải âu. Tôi bỗng thấy chóng mặt. Chính trị viên Thuận vội chạy tới đỡ vai tôi. Tôi níu tay Tư. Còn Tư thì ôm lấy cột lều. Sóng vẫn hắt qua mấy khung giường sắt, phủ lên đầu chúng tôi từng đợt nước mặn chát. Lần đầu tiên, tôi mới hiểu vì sao nước biển lại mặn đến thế. Và có lẽ không ở đâu nước biển mặn như ở đảo chìm. Mặn như máu...

                                     Trường Sa tháng 7 năm 1980

(*) Thơ Hữu Thỉnh.
         


 Đăng ngày 11/01/2009
Ý kiến về bài viết
  Gửi bởi: Bạn đọc - 11/01/2009

Đúng là Trường Sa đang có chuyện. Việt Nam nét vừa lại có thêm một bài nữa về vấn đề Trường Sa và biển đông. Hoang hô nhà văn Xuân Đức đã có tiếng nói kịp thời xác định chủ quyền. Cái truyện rất hấp dẫn. Tôi thấy từng chương tách ra cũng có thể độc lập như những mẩu chuyện nhỏ. Lối viết lạ. Chỉ có điều co chữ bé qua ông Đức ơi, tăng lên chút chứ mắt cánh hưu trí như chúng tôi đọc lâu mỏi lắm. Ông tăng cỡ chữ lên đi, cảm ơn chủ nhà.
  Gửi bởi: THU HOÀI - 11/01/2009

Tôi được con rể mua tặng tôi cuốn Đảo chìm của chú TĐK từ lâu, nhưng tôi lại chỉ đọc những phần khác chứ không đọc Đảo chìm, vì cái này từng mẩu cũng đã trích in trên báo Tiền phong gần chục năm về trước. Tôi đã theo đọc trên Tiền Phong và cũng rất cảm tình với lối kể chuyện của tác giả, những chuyện nửa hư nửa thực, gần với thể loại tấu nói, một loại hình sân khấu mà bộ đội những năm chiến tranh rất thích. (Tôi là diễn viên chèo). Nhưng bây giờ đọc một mạch ở trang Xuân Đức thì thấy cái truyện thật ấn tượng. Nói là tiểu thuyết, nhưng những tiểu phẩm này gộp lại cũng chỉ bằng hai chương tiểu thuyết của Nguyễn Văn Thọ thôi. Cái chương hay nhất là chuyện giết con lợn thì báo Tiền Phong không in, có lẽ họ e ngại theo quan niệm của thời ấy, cũng như màn giết Hề của Tào Mạt ngày xưa chúng tôi diễn, có ý kiến của một ông duyệt cần phải bỏ màn đó, nhưng bỏ màn đó thì không còn kịch. Nhân vật hay nhất trong cuón Đảo chìm của chú Khoa là con lợn. Nàng Anta mê na ấy. Đểu. Nhưng hay cực kỳ. Đọc con lợn này tôi cứ nghĩ đến nhân vật hề trong Tào Mạt, cái kiếp con hát mua vui cho đời, tác giả rất sâu sắc, chua cay. Hay lắm. Tôi chưa đọc một tác phẩm nào ngắn mà lại sâu sắc mà lại cảm động hài hước đến thế. Cám ơn nhà viết kịch Xuân Đức đã có khu vườn nghệ thuật rất đặc sắc
  Gửi bởi: Đồng Niên bạn Khoa - 11/01/2009

 Khoa còn nhớ tao ko! Cái bừa ở trường đi đưa đám con gái thày Hồng Vinh ấy! Tao thấy mày lẩm bẩm như thằng dở hơi! Tao bảo Trần Quốc Thực: Thằng Khoa cóc nó đang làm thơ đấy...Thực bảo: kệ nhà nó, tao thấy nó cứ như thằng dở hơi, nó chẳng giỏ giọt nước mắt nào...Thế mà mày làm bài thơ hay tệ. Cái bản cũ mày "mông má" nhiều quá...Thực nó chết, tao cũng như mày, có khóc được đâu. Bọn mình khóc nhau ở tâm tưởng mà xót xa thăm thẳm. Có đọc được dòng này ở  chỗ anh Xuân Đức mày phúc đáp cho tao...Cái thằng vô tâm thế..Hãy đoán xem tao là ai trong lớp trước khi mày đi Nga Xô
  Gửi bởi: Huy Cừ - 11/01/2009

Cái truyện hay quá. Nhưng tôi rất khó tin cái truyện này ông Khoa viết năm 1980. Vì ngôn ngữ rất mới, có những chữ của thời bây gờ, như đại ca, rồi hoa hậu, á hậu cũng là chuyện sau này. Năm 1980 còn trước đổi mới, khi đó hình như ta chưa có hoa hậu. Tôi đồ rằng, đây là những chuyện xảy ra năm 80 còn ông Khoa viết cái này vào cuối những năm 90,đầu những năm 2000. Ngôn ngữ mới lắm. Tôi thích văn xuôi của Khoa hơn thơ của Khoa rất nhiều, kể cả thơ trước đây, ông này viết rất hấp dẫn. Các chi tiết của ông ấy chắt lọc lắm, có một ý rất hay, tôi cũng có thời là lính biển nhưng  Khoa phát hiện ra là hải âu llà bạn thuyền chài, hải âu bay gần đất liền, nhìn thấy hải âu là ngửi thấy mùi đất liền, những người lính biển hy sinh, nhìn thấy hải âu là rất mừng vì hy vọng nắm xuơng của mình có thể được sóng đảy về với đất, khi khép chuyện, trước cái chết của Hai, ông Khoa cũng nhắc lại chi tiết này, cầu mong trước khi nước khép mặt Hai được nhìn thấy cánh hải âu. Tôi thực sự không thể cầm được nước mắt. Hay lắm. mà sao cái truyện này in lại nhiều lần, mà chẳng thấy ông phê bình nào nhắc đến, cũng chẳng được giải thưởng gì, dù chỉ khuyến khích hay giải chuyên ngành của quốc phòng hay an ninh. Ông Khoa tiếng nổi như cồn, nhưng khi nhắc đến ông ấy, không ít người cứ cho rằng ông này chỉ có thơ thiếu nhi là hay, có người còn xỏ xiên cho rằng ông ấy đã về hưu từ khi 8 tuổi. Kỳ thật. Cám ơn nhà văn Xuân Đức đã chiêu tuyết cho ông Khoa
  Gửi bởi: Thanh Xuân - 12/01/2009

Tôi là người Việt, sinh sống tại Canda. Lướt qua mấy trang Web Việt để đỡ nhớ nhà, thấy trang Xuân Đức hay quá. Cũng chỉ định đọc chơi thôi, ai dè đọc hết được cả cuốn tiểu thuyết trong nhà ăn của siêu thị Châu Á. Cũng không biết mấy tiếng đồng hồ. Bây giờ chắc 2h đêm giờ Việt Nam. Tôi thực sự xúc động, và chưa bao giờ tôi đọc một cuốn sách nào của Việt nam xúc động và hài hước như cuốn sách này. Viết quá giỏi. Tôi cũng có nghe tên ông Khoa nhưng chưa bao giờ đọc ông ấy một cách nghiêm túc. Bây giờ thì tôi sẽ tìm ông này đọc cho có hệ thống. Nhưng ngoài Xuân Đức, có trang Web nào công bố tác phẩm của ông Khoa không? Ông Khoa có blog không? Xin cám ơn nghệ sĩ Xuân Đức. Chúc trang nghệ thuật của ông càng ngày càng nhiều món ăn tinh thần bổ ích và lý thú. Tôi sẽ là khách hàng thường xuyên của ông
  Gửi bởi: Sư cọ gìa - 12/01/2009

Tôi đọc Khoa Đảo chìm trên nước Đức,
Năm ấy vợ tôi sinh con .. Tôi được Khoa tặng Đảo Chìm đã  lâu mà chưa thèm đọc. Bụng nghĩ, Khoa thi sĩ, Khoa nhà thơ thần đồng, biết quái gì về văn xuôi mà Chìm với nổi. Vợ sinh em bé, tôi phải thân một mình con cò lặn  lội, bán hàng kiếm sống, theo nghĩa đen, đúng là trên băng giá. Buồn quá, bão gió, tuyết băng nhiều, khách chẳng có ai. Nhớ chuyện nổi chìm, tôi mang theo cuốn sách mỏng của Khoa ra đọc.
Cuốn sách hút hồn tôi đọc liên tục. Năm ấy lạnh vô cùng. Băng dầy đến năm sáu phân dưới chân. Cỏ cũng cứng lại, đá một cái là gẫy như nó ròn lắm chứ không mềm mại như thi sĩ hay ca ngợi. Thế mà tôi cứ nguyên vị một  chỗ, một mạch, chơi sạch cuốn chìm nổi.
Đảo Chìm Khoa viết lời dẫn, nói là chuyện thật, ghi lại chuyện thật, nhưng tôi thừa biết nhiều đoạn hắn phịa, phịa 100 phần trăm, như câu chuyện vị tướng với người lính.
Tôi là lính chiến, 11 năm đánh nhau, 11 năm choảng tới hơn 500 trận ( cao xạ cứ bắn 1 lần máy bay đi là tính 1 trận), từng được huân chương chiến công ( chứ ko phải huân chương niên hạn) nên ai viết bốc phét là tôi biết tỏng. Đọc Khoa cái làm người cũng cầm bút, viết văn từ năm 1972 trong rừng, làm tôi bàng hoàng. Bởi cái khó nhất của nhà văn là không phải chụp ảnh sự thật; cái khó nhật là thâu tóm hồn cốt những sự thật mà dựng lên một sự thật. Những câu chuyện của Khoa, như chi tiết tôi nêu trên, hoàn toàn tạo dựng được tinh thần của người chiến sĩ với đất đai của cha ông. Cao cả, dung dị, đời thường mà hoành tráng...
Chi tiết câu chuyện giữa tướng và lính hoàn toàn làm người đọc như tôi xúc động và nhận ra Tiếng vỗ của 1 bàn tay. Trong Đảo chìm, các câu chuyện cứ như đùa, như chơi mà rơi nước mắt. Tinh thần một giải đất, một doi cát , một tấc đất của Tổ tiên được viết ra như khắc đá xuyên xuốt tác phẩm. Nó làm tôi nhiều lần khi đọc Khoa nghì về những tháng năm thế hệ chúng tôi vì đất mẹ, dám hy sinh mà run lên, măc mẹ tuyết gió vẫn ào ào thổi quanh Tôi. Ngay cả " nhân vật" con lợn Khoa dựng cũng tài. Tôi đã nuôi chó  khi 1 mình ở trong một ngôi nhà gỗ, quanh tôi nhung nhúc bọn cướp đồng hương, sẵn sàng băm tôi làm pate nên tôi hiểu nhân vật lợn. Nó biến thành người bạn lính như con chó nòi Đức Hanssi đã chia sẻ bao năm tháng với tôi ở giữa khu vườn mênh mông trắng lạnh, thiếu vắng con người, xa cách "Đất liền": Tổ quốc.
Khả năng cuả một nhà thơ có tài hay không ở chỗ cô đặc chữ, làm nên cảm xúc lan chuyền, sang chấn bạn đọc lập tức. Khả năng của một nhà văn là sự tái dựng điều nào đó có thể nhặt ngay từ cuộc sống ngồn ngộn hoặc bịa đặt (sáng tạo ra tình huống, chi tiết) mà vẫn tạo nên cảm giác vừa thật vừa khái quát gửi gấm một tinh thần tư tưởng nào đó, lại không hề "Nghĩa Lộ", tự nhiên như đời sống vốn có... KHoa là nhà văn đã làm được cấp độ thứ hai khi cầm bút...
Gần đây, một bạn văn trẻ   một cuốn tiểu thuyết hơn 500 trang trình làng,viết về các chiến sĩ Trương Sa. Anh, với tấm lòng trân trọng những người lính , viết cuốn sách ấy khi đang nằm trên Trường Sa, trình độ học vấn  còn thiếu hụt. Nhưng tôi đánh giá cao nó, vì tự nhìn thấy mặt mạnh anh làm được, đặc biệt là tấm long anh với bè bạn, đồng đội... khi mà với tuổi ấy, tôi khó có thể viết như anh. Song ở mặt nào dó, sách chưa vươn tới, vượt ra khỏi cái mô phỏng về đời sống cuả người chiến sĩ - chủ nghĩa hiện thực- Tôi bèn tìm mua 1 cuốn Đảo Chìm để tặng bạn gái của anh và anh, nhưng tìm mãi mà chẳng nơi nào bán. Bèn tới nhà sách Hàn Thuyên của cô Miên để giới thiệu Đảo Chìm cho Khoa tái bản. Ba ngàn cuốn tái bản ngay tắp lự và hết veo sau hai tháng cho nhiều đại lí bán, chứng tỏ Đảo Chìm của Khoa sau hơn hai chục lần “tái và chin” vẫn có bạn đọc; chứng tỏ: một nhà văn không cần làm điệu, nhất thiết cứ mải mốt đi tìm Tân tiếc gì để nổi tiếng...Sự tìm tòi bứt phá hình thức là cần thiết với con đường tất yếu của văn học nghệ thuật, song điều quan trọng hơn cả - theo tôi- khi là nhà văn có văn cách và nhân cách dứt khoát phải đầm mình đừng hoang tưởng, để nói trúng tâm ý của quần chúng lao khổ thì sẽ có bạn đọc! Nhất là hôm nay Trường sa, Hoàng sa đang là vấn đề danh dự và lương tâm của mỗi con dân Việt Nam, thì Đảo chìm của Khoa càng có tác động. Và khi thê giới tàn lụi chiến tranh lạnh, vấn đề Tôn giáo và Dân tộc (mãi mãi) là sự nhức đau của các sắc tộc thì Đảo chìm sẽ có sức sống lâu dài...
Bây giờ khi đang viết những dòng này tôi vẫn nhớ như in cảnh huống tôi đọc Đảo Chìm của Khoa ở Đức. Tôi đã để lại nó, Đảo ấy cho con gái yêu của tôi  trong bộ sach muốn con tôi sẽ đọc, phải đọc ...khi nó luôn nói Con là người Việt Nam.
Xin bạn đoc Trúc Sơn Trang lượng thứ về sự miên man này.
Một kẻ gang hồ  yêu văn chương như yêu gã

  Gửi bởi: Xuân Đức - 12/01/2009

Chào bạn Thanh Xuân ở tận Canda. Rất vui vì bạn đã ghé TST. Khoa không có blog riêng. Cũng không có những tác phẩm đằng dài trên các trang web hay blog. Nhưng Khoa có nhiều bài viết lẻ, nhiều chùm thơ trên các trang trannhuong.com, lethieunhon.com v..v..Riêng trên trang xuanduc.vn này, ngoài tiểu thuyết mini Đảo chìm còn có nhiều thơ, truyện ngắn đã đăng. Bạn nhìn bên góc trái của giao diện thấy ở mục Bài có nhiều người đọc nhất sẽ gặp Khoa nhiều đó. Chúc bạn vui và ghé đọc luôn.
  Gửi bởi: Đặng Hoàng Thu Hà - 13/01/2009

Cám ơn chú Đức đã giúp cháu đưa cuốn sách mà cháu yêu thích đến với cộng đồng TST. Cháu thức trắng một đêm gõ máy, không cả đọc lại. Chỉ sau một ngày mà đã có trên nửa triệu lượt người đến với Đào chìm, không có ai kêu ca về chính tả, câu cú, chắc là sai không nhiều, kể cả bác Khoa nữa, cháu lo quá, trừ một bác kêu phông chữ nhỏ, muốn nới ra cho dễ đọc, cái này thì lại thuộc phía chú Đức kia. Cháu thì bất khả kháng rồi. Mấy thằng bạn cháu cũng đã nhận được Mail cháu gửi truyện bác Khoa, nhưng chúng lại đọc trên TST, chúng bảo đọc ở đấy vui hơn, sinh động hơn. Cháu đọc lại trên TST thì thấy có lỗi chính tả, vì sau dấu chấm, không viết hoa, rất nhiều, có lẽ do đổi phông, mà có sự đảo lộn chăng, văn bản của cháu không thế. Nhưng thôi, cái lỗi tối thiểu đó, xin bác Khoa, chú Đức, bác Thọ và các quý vị TST tha thứ cho kẻ hậu sinh, chỉ biết yêu văn, nhưng chuyên môn, sở trường lại là dân toán, chuyên ngành Hóa. Một lần nữa cháu cám ơn chú Đức và bác Khoa, bác Thọ và các cô bác vườn văn Trúc Sơn Trang. Cháu Thu Hà
  Gửi bởi: Lưu Trí Kiên - 13/01/2009

Tôi là lính của tướng Cương. Nhiều ngươi cứ nhầm tướng Thượng tướng Giáp Văn Cương với Trung tá Giáp Văn Khương, người đánh Pháp, nhảy từ núi Ninh Bình xuống sông. Không phải. Cụ Cương thực sự là một vị tướng tài. Ông Cương tính cách đúng như cậu Khoa miêu tả. Ông cụ lãng mạn lắm, đã có thời bị kỷ luật tính lãng mạn. Nhưng chúng tôi rất phục cụ. Tài lắm. Ông Cương là tướng quân sự, nhưng diễn thuyết hay cực. Về điều này, các vị chính ủy Hải quân, cả ở thời ông Cương và sau này chỉ đáng là học trò ông thôi. Tôi rất thích nghe ông Cương nói chuyện với Lính. Còn nhớ thời tôi ở đảo, có vị Chính ủy Vùng ra huấn thị lính, khi về, có cậu chơi luôn một quả đại pháo 75 li xoẹt trên nóc đài chỉ huy tàu. Tra hỏi không tìm ra. Thực ra ai cũng biết nhưng không ai làm kẻ chỉ điệm. Chịu. Tướng Cương chẳng có văn bản giấy má gì, nói chuyện lính rất thích. Ông tuyên bố cắt phép của Lính. Hồi ấy có người ở đảo đến 4 năm liền, chứ không như giờ đâu, mà đảo lại thiếu thốn, khổ lắm, khổ đúng như cậu Khoa miêu tả. Ông Cương bảo: Tớ đâu có muốn đầy đọa các cậu. Nhưng đây là Tổ quốc của mình, máu thịt của mình. Giá trị gì mấy cái hồn đá cỗi cằn này mà phải gìn giữ? Nhưng ta giữ có phải mấy hòn đá hoang vu này đâu. Mà là biển cả đấy chứ. Mất đảo là mất biển, mà biển lại bao bọc suốt từ bác đến nam. Tất cả kẻ thù đánh ta đều đi đường biển. Pháp cũng vào ta từ biển. Mỹ cũng thế. Gần kề ta núi liền núi, sông liền sông mà bọ Ômãnhi xưa cũng vào ta qua cửa biển Bạch Đằng. Thế thì chúng ta phải giữ đảo, giữ biển thôi. Khổ mấy cũng phải giữ. Có chết cũng phải giữ. Thế nên chúng mày mới phải chịu cảnh đọa đầy thế này. Tao già rồi, ngoài 70 rồi, lẽ ra phải được ở nhà an thú tuổi già chứ, vậy mà mà tao cũng lại phải lặnh lội ra đây. Vẫn phải làm Tư lệnh. Ở đây có cậu nào thay được Tư Lệnh không? Xung phong nào? Mạnh dạn lên chứ. Cậu nào làm được Tư Lệnh, tớ sẽ báo cáo quân chủng, báo cáo Bộ Chính trị cho thay ngay Giáp Văn Cương?. Còn việc về phép của các cậu, chúng tớ có tiếc gì đâu. Nhưng Bộ tư lệnh nghèo quá. Cả nước nghèo quá. Còn hàng triệu bà mẹ liệt sĩ đói ăn, hàng triệu trẻ con không có trường học. Đưa một cậu về phép, bộ tư lệnh phải xuất 20 tấn dầu cả tầu ra tầu về. Mà dầu thì cả nước cũng không có, phải mua của nước ngoài, mua rất đắt. Một đứa bớt một lần về phép thì một trăm bà mẹ Liệt sĩ có được đến mấy tháng ăn. Mà hàng triệu bà mẹ liệt sĩ còn đứt bữa. Thế rồi ông khóc. Lính cũng khóc. Thôi, chúng con hiểu rồi. Bố đừng nói nữa, chúng con thương bố lắm. Ông Cương bảo: Chẳng ai nỡ làm một cái việc táng tận lương tâm là cắt phép của các cậu. Nhưng hôm nay tớ phải làm cái việc táng tận lương tâm ấy. Cắt phép. Còn nếu cậu nào có thể tự túc về được thì tớ cho các cậu đi ngay. Đi bất cứ lúc nào. Có ai bơi được về đất liền không? Không à? Giai trẻ gì mà kém thế. Tớ mà trẻ trai như các cậu là tớ trốn đấy. Thế là ltướng với lính cười bò. ÔNg Cương tài lắm. Mà ông ấy chân thành cơ, anh em lính tráng rất thích., mặc dù ông ấy rất nghiêm chứ không đùa cợt sàm sỡ. Khoa viết về tướng Cương rất đúng. Nhưng đúng như nhà văn nguyễn Văn Thọ nói, có chi tiết Khoa bịa, như việc ông Cướng đánh trận ở Điện biên phủ. Ông Cương là lính thời Điện biên, nhưng không biết gì về Điện biên. Khi Điện biên xảy ra, mặt trận của ông Cương lại ở chiến khu đông Triều. Riêng điều này thí chú Khoa đếch biết gì cả. Nhưng cũng không phải vì một chi tiết vặt mà hỏng cả một cuốn sách đặc sắc. Cám ơn nhà văn Xuân Đức 
  Gửi bởi: Đảo khổng lồ - 13/01/2009

Một tiểu thuyết. Mini. Hóm. Đoc rất vui.
Các nhân vật , kể cả nàng An Ta Ra Mê Heo... cá tính, nhộn.
Nhưng một cái đảo nổi có mấy mét vuông mà tốn bao công sức tiền của để đứng cạnh canh thế có đáng không? Thiếu gì trong quần đảo những dảo đúng nghĩa đen của nó, đầu tư.. giữ gìn.. cho ra đầu tư và giữ gìn.
Cái anh lính Hai quá là có những đức tính tốt của một con người, một người lính. Nhưng là lính đảo, anh ta phải hiểu quy luật của thiên nhiên chứ. Bão như thế... mà liều với chiếc xuồng phao mỏng manh, để làm gì? Dể cứ cái bát sắt ăn cơm đôi đửa và vài thứ chỉ đáng giá vật chất nhỏ nhoi... so với cái giá là tính mạng của mình. Anh cứ theo tàu với đồng đội. Rôi bão có cuốn đi những thứ đó thì đất liền vẫn dõi theo các anh cơ mà, thứ gì các anh cần là người ta gửi ra cho. Thời chiến tranh, người dân Quảng Bình, Vĩnh Linh còn dám phá cả nhà của mình để lót đường cho xe qua ngầm cơ mà!
THế mà Hai um ơi, hai ùm, tôi vẫn khóc thương cho anh, nhưng anh quả là ngốc nghếch số một. Đáng ra những điều như thế ông chiúnh trị viên đã phải huấn luyện, đào tạo cho anh hiểu trước khi đưa anh ra đảo chứ. Một mạng người chứ ít đâu. Còn người còn của.   Nếu "thằng Thiêm" nó ốm, mà chưa mang nó lên tàu kịp anh quay lại để cõng đồng đội lên tàu thì còn là "vì đồng đội". Đằng này có cái bát sắt, đôi đũa, và cái ba lô linh. Ba lô liinh trên đất liền thì anh biết là có gì, huông hồ ba lô lính biển, có chăng chỉ mấy con sò...
Hai ùm ơi, ngốc nghếch quá, bỏ mạng làm chi dưới biển để biển mặn thêm, để đồng đội anh giờ mới thấy mặ mặn như máu hả Hai ùm ơi là Hai um!

  Gửi bởi: Người tí hon - 13/01/2009

Nhưng một cái đảo nổi có mấy mét vuông mà tốn bao công sức tiền của để đứng cạnh canh thế có đáng không? Thiếu gì trong quần đảo những dảo đúng nghĩa đen của nó, đầu tư.. giữ gìn.. cho ra đầu tư và giữ gìn.
Anh bạn kí tên Đảo khổng lồ ơi, xem ra cái tên khổng lồ không hơp với bạn. Hoặc cái xác thì khổng lồ nhưng cái suy nghĩ thì..quá cạn. Bạn thử đọc lại đoạn trên để thấy cách nghĩ về Tổ quốc của bạn và ý nghĩ của cuộc chiến đấu giữ đảo là thế nào ?

  Gửi bởi: Đảo khổng lồ - 13/01/2009

Gửi người tí hon
Cái yêu nước và yêu tổ quốc, bạn tưởng tôi không à. Chắc gì bạn bằng tôi cái khoản đó.
Hãy ra giữa trận tiền, và có dám liều mình vì tổ quốc không. Hay là nói mồm, rồi xách dép chạy.
Người ta thường theo nhau khen tuốt cung mây. Hãy nhìn nhận vấn đề cho rõ ràng, khoa học và theo quy luật của nó. Yêu nước yêu tổ quốc cũng vậy. Chứ không chỉ nói mồm: tôi yêu, rồi tự dưng nhảy vào đống lừa cháy bên đường để chứng tở yêu tổ quốc à. Đó là ngu dốt.

Tôi nêu vấn đề phản biện thế. Để cùng suy nghĩ, nhìn nhận. Một khía cạnh thôi.
Bạn lại đưa "yêu nước", yêu tổ quốc ra đây". Xem ra cũng mừng là bạn có yêu nước, yêu tổ quốc!
Và bạn cũng đọc lại đoạn "đảo khổng lồ" viết xem. Tôi vẫn thương cái chết của nhân vật, nhưng giá như cái chết đó xảy ra vì phải quay lại cứu đồng đội, đằng này cứu cái bát sắt đôi đũa và cái ba lô !
 Sao? đọc lại và cố mà hiểu tôi nói đi. Cái kiểu bắt bẻ như bạn thì tôi chắp tauy lạy bạn. Tôi to xác những rỗng, ý bạn thế , cũng được. Rỗng hay không chứ không phải là a dua nhau thế. Đứng xa ra, nhìn khách quan vào, lúc đó ta tỉnh táo lạ thường... he he.

  Gửi bởi: Nguyễn Xuân Viên - 13/01/2009

Tôi đã đọc một lèo cuốn tiểu thuyết mini của TDK , lúc thì khóc, lúc thì cuòi, hay vô cùng, nhất là trong không khí nhũng ngay này, càng thấy cái tiểu thuyết rất lón và rất hay. Đọc vô cùng thấm thía. Vốn là lính biển, tôi thấy không có ai viết về lũ chúng tôi hay đến nhu thế. Theo tôi đây là cuốn tiểu thuyết viết hay nhất Việt Nam tính tính tù 1945 đến nay.
Cảm on TDK và TST
Tổ quốc Việt Nam bền vũng và toàn vẹn muôn năm !

  Gửi bởi: Phan Văn Tòng - 13/01/2009

Tôi rất cảm động đọc vài dòng của Luu Trí Kiên viết về ông GVC, một nhà lãnh đạo tài giỏi. Bảo vệ đảo phải có nhiều chiến sĩ vĩ đại và thầm lặng, vô cùng dũng cảm mà hi sinh nhẹ nhàng vậy thôi. Hoan hô anh Trần Đăng Khoa. Hoan hô cả cháu Đặng Hoàng Thu Hà, đã vi tính cuốn tiểu thuyết tuyệt diệu của Trần Đăng Khoa, để bạn bè TST đọc trong ngày đầu xuân bảo vệ Tổ quốc này.
Hay quá!

  Gửi bởi: Đặng Hoàng Thu Hà - 13/01/2009

    Bác Đảo Khổng Lồ và bác Người bé tí đều có lý trong lập luận của mình. Để cứu một vài thứ lặt vặt mà hi sinh cả một tính mạng, một con người tuyệt đẹp như Hai Ùm là sự đau xót và quá phung phí. Tính mạng con người là trên hết. Còn người còn của. Tuy nhiên, trong trường hợp Đảo chìm lại không phải thế, không thể nói là Hai ngu ngốc như bác Đảo Khổng lồ, cũng không thể coi thường những thứ tưởng như là lặt vặt. Cái ba lô, cái bát sắt và đôi đũa là thứ vặt vãnh, nhưng lại không phải vặt vãnh khi những thứ đó là của Thiêm, người lính đã mất, lại mất không còn xác, không có hài cốt, vì thế, nó đã thành di sản thiêng liêng, vô giá, hơn thế, còn rất đặc biết, có thể lấy di vật ấy thay hài cốt đắp thành ngôi mộ gió, để bà mẹ già của Hai còn có chốn để thắp hương như Hai nói. Vì thế, việc Hai quay lại cứu di vật ấy là hợp lý. Hai rất đẹp cũng vì thế, việc làm của anh làm chúng ta rất cảm động cũng vì thế. Rất hợp lý và rất thật. Cháu nghĩ thế.
  Gửi bởi: Traito - 13/01/2009

Khổng lồ với cả Tí hon
Đầu năm cãi bởi cái còm làm chi
Ta yêu Tổ quốc từ khi
Nói thì bập bẹ, răng thì...chưa lên
Đâu riêng đảo nổi, đảo chìm
Ta yêu cả dải đất liền đó thôi
Khổng lồ nói thế theo tôi
Vì tiếc xương máu lính thôi Hon à
Taị văn viết còn xuề xòa
Nên Hon mới thấy Lồ là đáng chê
Nhưng đọc cho kỹ thì...thì...
Dù vụng diễn đạt, Lồ thì có tâm
Vậy nên đừng giận nữa Hon
Ta bàn đến chuyện bơi xuồng chút nghe
Tôi nghĩ Khoa rất có li (lí)
Khi để Hai lội ngược về đảo chim (chìm)
Tính cách Hai thế mà anh
 Ầm ào đi với trái tim nhân từ
Hiểm nguy nào có so đo
Đã thương thương đến ba lô bạn hiền
Nên Hai bơi ngược về tìm
Là chi tiết đắt nhất trong chuyện này
TÌNH ĐỒNG ĐỘI phải không hai
Bạn Lồ với Tí Hon này, đúng không ?




  Gửi bởi: Trần Toàn - 13/01/2009

Đảo khổng lồ bình luận về cái chết của Hai chỉ đúng một tí thôi, hi sinh tính mạng vì cái bát, đôi đũa thì không đáng, nhung cái ba lô lại khác, nó là cả thế giói tinh thần của Thiêm, cái để đồng đội chuyển về cho mẹ Thiêm sau khi nó đã hi sinh, thậm chí có thể biến nó thành một nấm mồ. Vậy thì cái ba lô ấy không còn là cái ba lô ... mà là giá trị sinh tủ của lính rồi. Vì vậy Hai quay lại là đúng và cái chết của Hai thành ra thiêng liêng vì giá trị tinh thần của đồng đội cũng ngang vói mạng sống của đồng đội vậy. Đảo Khổng lồ chắc chắn là yêu tổ quốc rồi. nhung chắc không phải là lính, nên không hiểu tình cảm thiêng liêng này. Có lính sau khi chết chỉ còn một cái bàn chải răng sau khi đã bẻ cái tay cầm, để hành quân cho nhẹ, chỉ còn mỗi chỗ để chải răng và đấy là kỉ vật duy nhất chuyển về cho mẹ, vậy thì DKL nói sao về cái khúc bàn chải ấy, liệu có vất đi đuọc không ? Không có cái đó thì bà mẹ còn cái gì của con... để mà cúng giỗ...
  Gửi bởi: Đinh Thị Hạnh - 13/01/2009

Tôi thấy cái tiểu thuyết cũng hay, mà những lời bình luận của các thành viên TST cũng hay không kém. Nhiều lời bình thật cảm động mà cũng sâu sắc vô cùng. Bác Xuân Đức tài thật, tôi thấy cái "Hội thảo" văn chương này còn hay hơn rất nhiều những cái hội thảo tốn kém rất nhiều tiền bạc của nhân dân mà hiệu quả có khi lại chẳng hơn gì. Có thể xem trang văn của Xuân Đức như một gợi ý cho cách sinh hoạt văn nghệ, hay sinh hoạt văn hóa cộng đồng. Quá hay
  Gửi bởi: Đảo kl - 13/01/2009

THế Hai ùm không có mẹ sao?
Mẹ của Hai ùm có gì sót lai sau khi Hai ùm chìm trong cơn bão. Tôi là tôi nghĩ xa thêm sau đó nữa.

Tôi cũng hiểu những cái của người lính sau khi mất là một kỷ vật thiêng liêng đối với đồng đội, với người thân
Cái ba lô và những kỷ vật của LS Đản mà kẻ thù cũng còn giữ nữa là! Người lính Mỹ sau khi đưa chúng về cho gia đình LS Đản , ông ta mới thấy thanh thản nữa là.
Những chuyện đời như thế làm sao tôi không hiểu.

Tôi muốn nói là: chúng ta không sợ hy sinh, nhưng phải hy sinh thế nào cho đáng giá, đừng để trả một cái giá đắt quá, quá đăt. Hy sinh nào chẳng phải đau đaown. Và nỗi đau nào chẳng là nối đau, nỗi đau của người lính đâu của riêng ai.
Chúng ta nói thà hy sinh tất cả, chứ không chịu làm nô lệ.
Người ta nói nếu làm người tôi sẽ chết cho quê hương. Tôi thì tôi nói, nếu làm người tôi sẽ sống cho quê hương. Đấy mới đúng.
Chúa nói với con chiên: con chiu khó cắn rơm cắn cỏ để khi đến thiên dường con được ăn bánh mì.
Tôi không phải là con chiên, nhưng là con chiên tôi sẽ chọn,  được ăn bánh mì dười trần gian này, rồi đến khi lên thiên đường con sẽ cắn rơm, cắn cỏ ở trên đó sau cũng được!
Những ý kiến của tất cả quý bạn bè  tôi rất quý trọng, và đó là ý của quý ban. Tôi nói những suy nghĩ của mình dưới góc độ riêng của mình. Và tôi đã suy nghĩ kỹ mới nói. Xin ai đừng nói với tôi cái kiểu tôi là khổng lồ mà nghĩ thì... quá cạn. Bạn tí hon đừng nghĩ chỉ có bạn mới sâu sắc hơn người.
Thử hỏi mưa to bão lớn ở ngoài trời, bạn có dám lao ra để chỉ cứu lấy chiếc áo của Mẹ mình phơi quên chưa lấy vào, mà biết rắng như thế là nguy hiểm. Đối với bạc chiếc áo rất quý, vì là của mẹ. NHưng bạn quên mất một điêu, tính mạng của bạn còn quý đối với người mẹ như thế nào!
Nếu ai đó khuyên bạn rằng, đừng làm vậy. Bạn còn quý hơn chiếc áo đó. Vì Bạn cũng là của mẹ bạn, và quý giá vô cùng so với chiếc áo kia.
Nếu người mẹ của THiêm biết được Hai ùm lao ra đảo với chiếc xuồng cao su, thì bà sẽ ngăn Hai lại. Ngăn chặt lại không cho Hai Ùm đi. KHông cho. Nhất quyết không.

  Gửi bởi: Bạn đọc - 13/01/2009

Ý của Đảo KL cũng có lý đấy. Một cuộc tranh luận rất lý thú. Hay. Tôi ủng hộ cả hai ý kiến
  Gửi bởi: QUỲNH ANH THƯ - 14/01/2009

Vấn đề không phải nên hay không nên với chiếc ba lô kỷ vật. Mà người đọc, nhân dân cần hiểu cho :
"...Truyện của một anh nhà báo, thấy gì ghi thế. Truyện đã có sẵn trong đời sống.nhân vật đều là người thật..." (lời tác giả)
Không phải là ngụ ý của tác giả nữa, mà qua đó nói lên cuộc sống chiến đấu của những người lính ngoài đảo nhỏ mến yêu của chúng ta ,ngoài khó khăn thiếu thốn vật chất, tinh thần. đêm ngày đối đầu với địch... còn đối đầu với hiểm họa vô hình, chỉ tính toán chậm một tý cũng chết,  như trường hợp đi giặt chăn cũng hy sinh...
Trường Hợp Liệt Sỹ Hai Ùm của chúng ta hy sinh vì vào thời điểm đó, vì không lường trước những hiểm họa đang ào vào nhanh và mạnh hơn bình thường. (Mặc dù đối với Hai là người quen sóng nước). Nhưng trong hoàn cảnh đó không có thời gian để tính toán. (Kể cả tác giả)
   Chúng ta không có quyền bới móc nhưng điều sơ suất ấy của những liệt sỹ như Hai ùm.
Nếu như Đảo Khổng Lồ mà là cán bộ chính sách thì làm khổ cho gia đình thân nhân thương binh , liệt sỹ lắm nhỉ?.
  Chắc rằng ông sẽ hỏi nhiều câu làm cho gia đình liệt sỹ và thương binh khóc hết nước mắt. "Nào là hãy chứng minh vết thương này là do đạn địch chứ không phải do sơ suất...vv"
 Trong số những liệt sỹ đến giờ này chưa hoàn thành thủ tục thì có những người do xui xẻo gặp phải ồng Khổng lồ quan liêu tỏ vẻ đó.
  Bác Đức à Theo cháu nghĩ bác nên đóng cửa những lời bình đó lại , kẻo đụng cham hương hồn các liệt sỷ, đụng chạm lòng tự trọng của thân nhân các liệt sỹ, thương binh, cựu chiến binh .
   Kể từ tháng 7/1980 tác phẩm "Đảo chìm "ra đời đến giờ tái bản đã 25 lần . Có cả lời bình những nhà văn, người lính vào sinh ra tử như bác Nguyễn Khắc Trường , Lê Lựu,Ngô Vĩnh Bình ,Phạm Ngọc Tiên , Nguyễn Văn Thọ... mà chưa thấy ai bới móc lạ lùng như đảo khổng Lồ .
Đề nghị đảo khổng lồ là ai nhà văn, nhà báo ,nhà phê bình hay viết rõ họ tên và gửi lời nhận xét về địa chỉ trên cho tác giả.
 Chúng tôi những đọc giả chỉ thấy hay và rất hay không ân hận ,oán trách gì những người đã hy sinh quên mình vì Tổ Quốc thế thôi .Hãy để vong hồn Ông,cha, anh, bạn... chúng tôi yên nghĩ ,ít nhất là trong dịp tết cổ truyền dân tôc này

  Gửi bởi: Trần Toàn - 14/01/2009

 Bạn DKL nói có một phần đúng .  Nếu tôi là mẹ Thiêm tôi sẽ kéo Hai lại. Nếu tôi là Hai, tôi sẽ lao đi. Hai ùm nghĩ, nó không thể chết vì việc đó quá xoàng đối vói Hai, con cá kình trên biển Đông mà. Cái chính là Hai không nghĩ mình sẽ chết, không nghĩ đến cái chết, í nghĩ ấy không có trong suy tính của Hai, tình cảm đồng đội đã chiếm lĩnh hết thảy, vì thế cái chết của Hai làm ta cảm động vì nó không tính toán cá nhân. Hình ảnh Hai rất đẹp vì thế.
Bạn DKL nghĩ đúng , đó là ý nghĩ của ng. ngoài cuộc khi việc đã xong. nếu DKL trong tình thế nhu Hai, tôi tin DKL sẽ hành động nhu Hai. Tôi chắc thế. và đó là phẩm chất rất kì lạ và thiêng liêng của con ng., nhất là ng. lính trong hoạn nạn

  Gửi bởi: Xuân Đức - 14/01/2009

Thân gửi bạn Quỳnh Anh Thư !
Theo bác không cần phải đóng làm gì, làm vậy nó có vẻ áp đặt
Những lời bàn của bạn lấy tên là Khổng lồ kể ra cũng không có hại gì. Cái đáng buồn là các bạn đừng lấy những lí lẽ hôm nay, lí lẽ của cuộc sống đang quá tỉnh táo với rất nhiều toan tính hơn thiệt  để luận về suy nghĩ của người lính trong chiến trận. Cũng đừng nói to tát theo kiểu cứ đưa ta vào lửa, ta sẽ sáng bừng cho coi.Thwơng Hai ùm theo kiểu đó là thương hại cho những con người qua ngây ngô, cuồng tín. Người lính họ không cần tình thương kiểu ấy.
Mình xin post lên đây một đoạn ngắn trong Trường ca " Đường tới thành phố" của nhà thơ Hữu Thỉnh để thay mình nói điều này. Cái hy sinh của người lính đôi khi chỉ vì một cái rất nhỏ, nhưng nó lại lớn vô cùng. Đây là suy nghĩ của người lính thật, trong một cuộc chiến thật, của một thời có thật đấy.
Anh quên thơ để nhớ gốc sim cằn
Dăm bảy lá lèo tèo như mực rớt
Sim như là không có cũng không sao
Ấy thế mà chúng anh thay nhau đến đây để mà hy vọng
Tưởng không sim thì không cả đời mình
….

Trời ơi nếu kẻ thù chiếm được
Chỉ một gốc sim thôi dù chỉ gốc sim cằn
Tổ quốc sẽ ra sao? Tổ quốc?
Thơ ơi thơ hãy ghì lấy gốc sim
Anh đang bò về phía gốc sim
Ngực đập dội chuyền sang đất đá
Quần áo tướp ra
Một nửa người anh dâm dấp máu
Anh đang đau cho đất đá anh yêu
Gốc sim cằn và xơ xác làm sao
Không che nổi anh đâu, bò cách chi cũng lộ
Em có thể mất anh bất cứ lúc nào
Em có thể bơ vơ khi em còn rất trẻ
Anh có thể chẳng bao giờ còn đánh được gốc tre
Phơi nỏ sẵn dành sưởi đêm cho mẹ
Sông ơi sông nếu ta phải ra đi
Bậc thấp xuống cho em ra gánh nước
Xin bát canh đến tay mẹ lúc còn nóng
Xin mùa đông đừng dài
Và cột nhà hãy đỡ mẹ thật êm
Trời bao nhiêu thu ta mới hát một lần
Nhưng trước mặt là Tổ quốc
Dù chỉ gốc sim thôi dù chỉ gốc sim cằn
Anh ôm súng bò lên với trái tim tình nguyện.
***
-Những thằng ngụy kia nó cũng có mẹ
Mẹ nó đang héo đi, đang mong nó trở về
Ấy thế mà tại sao nó cứ đòi giết anh
Chỉ vì anh thương một gốc sim và nhớ em không nói được
....


  Gửi bởi: TĐK - 14/01/2009

Bữa nay mới ghé được vào Quán Trúc. Tôi thật sự bất ngờ và rất cảm động khi các quý vị và các bạn đã đến với Trường Sa và đến với cuốn sách nhỏ của tôi. Những lời bàn của các bạn đều rất thấm thía. sâu sắc. Nhiều tư liệu rất hay như tư liệu về Tưong Giáp Văn Cương. Nếu sắp tới cuốn sách in lại, tôi xin phép các quý vị và các bạn cho bổ sung thêm những lời bàn này, in vào phần phụ lục, dùng nguyên, không cắt tỉa, biên tập, vì các bạn đã bổ sung thêm nhiều vấn đề , nhiều tư liệu rất quý mà cuốn sách của tôi không có được. Tôi cũng rất vui khi gặp bạn đồng niên. Vì trong hội hóa trang, bạn lại ngụy trang quá khéo nên tôi không thể gọi tên bạn ra được, nhưng tôi biết chắc chắn đó là người bạn chí cốt của mình, vì bạn biết cả biệt danh của tôi, biệt danh do tôi tự đặt. Một lần nữa Xin cảm ơn tất cả các bạn và chúc các bạn hạnh phúc. TĐK

  Gửi bởi: Phan Văn Tòng - 16/01/2009

Tôi không phải là lính biển mà là lính bộ đã đánh trận dọc Tây Nguyên, tuy thế cuốn tiểu thuyết của anh Khoa vẫn làm tôi vô cùng xúc động. Tôi thấy trang nào cũng hay đến lạ lùng,vì vẻ đẹp trong sáng và rất hồn nhiên lạc quan của lính biển. Tôi rất chú ý đến ý kiến của ông Nguyễn Xuân Viên khi xếp cuốn sách này vào loại hay nhất của tiểu thuyết VN. Có lí đấy. Cuốn tiểu thuyết ai cũng khen là Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh. Tôi thấy nó thật buồn, chua chát, xót xa , cuộc chiến thì thắng mà bộ đội ta thì thua, có thể nói là thảm bại, cả thể xác lẫn tinh thần. Cuốn của anh Khoa khác hẳn, gian khổ, thiếu thốn khủng khiếp mà vẫn vui, vẫn tin vào cuộc sống. Ngay cái chết cũng có khả năng thúc đẩy phát triển và tôi thấy thế là đúng .Tôi  thấy tổ quốc ta thật hùng vĩ và thiêng liêng. Tôi thích cuốn sách của anh Khoa và đánh giá cuốn của anh Khoa rất cao là vì thế
  Gửi bởi: NGUYỄN ĐỨC ĐỆ - 16/01/2009

  Tôi đồng ý với anh Phan Văn Tòng cũng như nhiều anh chị tham gia bàn luận. TĐK là nhà tiểu thuyết, nhưng anh ấy lại là một nhà thơ có tài, một chuyên gia ngôn ngữ, nên tôi thấy các câu chữ của Khoa chắt lọc và chặt chẽ lắm. Cái ba lô là một tác nhân dẫn đến cái chết của Hai đã được TĐK cài cắm ngay từ phần đầu của tiểu thuyết. Khi K đến, Hai đã giao cái ba lô của Hai cho Khoa giữ. Và chiếc ba lô đã thành một nhân vật. Có những chi tiết đọc thấy gai người, là thỉnh thoảng cái ba lô lại chao lắc trong gió và đôi đũa lại khua vào cái bát sắt leng keng. Và những lúc như thế, Hai thường lần dậy, đơm bát nước ngọt, là cái quý nhất đảo, đặt lên thành giường, rồi chắp tay vái lên nóc bạt. Sau này, cũng vì sợ mất cái ba lô này mà Hai lần trở lại đảo cứu cái ba lô. Vì đó là ba lô của người lính đã mất không còn hài cốt, nên có thể đưa bảo vật này cho mẹ Thiêm, an táng làm mộ gió để có chỗ cho bà mẹ còn thắp hương cho con. Chi tiết đắt vô cùng. Đau và trong vô cùng. Các tình tiết diễn ra rất hợp lý. Tôi chưa đọc cuốn sách nào mà đọc rồi thấy ám ảnh, không sao quên được. Hay vô cùng.
  Gửi bởi: Phan Văn Tòng - 17/01/2009

Ý kiến của anh Ng. Đ. Đệ rất tinh, nhận xét của anh là của 1 nhà phê bình, có khả năng thẩm văn khá cao, không phải nhà phê bình nào của ta hiện nay cũng có. Cuốn tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh của BN nhiều nhà phê bình tên tuổi cho là hay nhất VN. Đặt bên cạnh cuốn của TDK và cùng đọc 1 lần sẽ cho ta 1 nhận định về vị trí của 2 tác phẩm này. Tôi nói là tôi đánh giá cuốn của TDK cao hon. Cuốn anh Khoa đọc xong thấy nó ám ảnh mình rất ghê, về vẻ đẹp cao cả và giản dị của anh bộ  đội Cụ Hồ, vẻ đẹp hùng vĩ và thiêng liêng của tổ quốc. Mọi tác phẩm thật hay , có giá trị rất lâu dài đều vậy cả. Đúng ko ?
  Gửi bởi: Đỗ Duy - 17/01/2009

VN ta có nhiều tiểu thuyết hay, sắc sảo, phản ánh sinh động nhiều mặt chiến tranh, hòa bình, xây cuộc sống hiện đại kinh tế WTO. Đọc mà thấy vui , đặc biệt xúc động đến phải khóc mà vẫn không bi lụy, mà lạc quan cách mạng, hiển hiện vấn đề trung tâm nhất của mọi thế hệ VN là bảo vệ tòan vẹn lãnh thổ, thì không có cuốn sách nào bằng cái ĐC của TDK, nhất là vùng biển TR. SA của ta hiện nay, cuốn sách thật tuyệt mà lại viết cách đây gần 30 năm. Thật kì diệu. Không thể dùng câu nào khác để nói cảm nghĩ của tôi về tuyệt tác này, vâng, thật tuyệt diệu
Hoan hô anh TDK
Hoan hô TST
Hoan hô em Thu Hà, chỉ là một bạn đọc, đã trắng một đêm làm vi tính văn bản tiểu thuyết ĐC để tặng tất cả chúng ta.  Cũng không có ai đã làm vậy đâu. Hoa hô.
Nếu việc THU HÀ không làm, liệu đến nay, chắc gì đông đảo bạn đọc chúng ta đã có tác phẩm mà đọc. Chỉ riêng điều đó cũng là một dấu ấn khó quên.

  Gửi bởi: Phạm Xuân Viên - 18/01/2009

kinh gui nha van XD
Vốn là lính biển, tôi rất thích cuốn DC của anh TDK và đoc lần đầu tiên qua TST của nhà văn XD, do đó tôi nghĩ đến cháu Đặng Hoàng Thu Hà , là một ng. tốt đã làm một việc tốt. Tôi đề nghị nhà văn XD chuyển lên trong trang tâm sụ cña TH một cái ảnh của cháu để chúng tôi biết mặt sau khi đã biết tên
Chắc TH thông cảm và tôi tin nhiều bạn đọc của TST đồng tình , nhất là các đồng ngũ của tôi ,và NV XD làm việc này cũng không khó lắm. Còn ảnh TDK thì chúng tôi biết nhiều rồi. Tôi rất khó chịu khi thấy ai đó ý chế riễu cái chiều cao khiêm tốn của thân thể anh Khoa. Đó là cha mẹ sinh ra. Nói thế là bất nhân, vô đạo lý.
Xin cam on NV XD

  Gửi bởi: Xuân Đức - 18/01/2009

Chào bạn Phạm xuân Viên ! Tôi cũng ưng như bạn lắm. Rất tiếc tôi cũng như bạn, không biết TH là ai. Thế giới ảo mà. Nếu cháu TH meo vào cái ảnh thì tuyệt.
  Gửi bởi: ĐẶNG hOÀNG THU HÀ - 18/01/2009

   Cháu rất cám ơn các chú, các anh đã quan tâm đến một con người vô danh, không phải nhà văn mà chỉ là người yêu văn chương thôi. Ngày nào cháu cũng vào TST, không phải bây giờ mà từ rất lâu rồi, từ khi chú Xuân Đức lập quán, cháu đã có mặt, cháu rất thích trang Web này vì tính văn hóa rất cao, đặc biệt là cái tâm của người lập W, cái tâm của những người vàoW rất trong sáng và vô tư. Cháu lặng lẽ vào và lặng lẽ ra. Nhưng lần này thì cháu lộ mặt và chú Đức cần ĐC mà cháu thì có đến 4 cuốn in trong 4 lần khác nhau, cuốn mới nhất in cuối năm 2008, có bổ sung thêm một cái truyện mini về ông già 72 tuổi lập mưu cưới vợ rất hay. Thế là cháu lại mua thêm. Cuốn này in đẹp, bìa của họa sĩ nổi tiếng Văn Sáng. Cái bìa đẹp, nhưng chứng tỏ bác Sáng vẽ bìa nhưng lại không đọc sách của bác Khoa. Bác Khoa viết về một hòn đảo chìm, nghĩa là một hòn đảo chưa có đảo, nó mới là một cái mô hình, như mô hình CNXH mà chúng ta đang gìn giữ vậy, bác Sáng lại vẽ hòn đảo có núi non, núi cao chót vót, có cả chim bay mây lượn. Đấy là đảo của bác Sáng, không phải đảo bác Khoa. Cháu đang sưu tầm đủ 25 cuốn ĐC của 25 lần xuất bản trong vòng 8 năm, cuốn in lần thứ nhất là tháng 10 năm 2000 ở nhà xuất bản thanh niên. Cuốn ấy cũng Văn Sáng vẽ bìa, nhưng màu vàng. Trung bình, mỗi năm hơn 3 lần tái bản. Cuốn sách rất hay nhưng cháu rất ngạc nhiên khi không thấy có một giải thưởng nào cả, kể cả giải thưởng chuyên ngành của Bộ Quốc Phòng hay Tổng cục chính trị. Cuốn sách này không phải chỉ có Đảo chìm mà còn có nhiều tác phẩm viết về lính cũng rất hay như Ký ức tháng Tư, Chuyện ở Quảng Bình, nhiều lắm, điều lạ hơn cũng không thấy một nhà phê bình nào nhắc đến nó lấy một chữ. Vậy thì rõ ràng có một dòng văn học rất chính thống mà lại nằm ở ngoài Hội nhà văn và các cơ quan chuyên ngành của văn học. Cháu rất vui khi chỉ có mấy ngày, chưa đảy một tuần đã có trên hai ngàn người đọc và bình luận rất sâu sắc. Cháu rất cảm ơn khi các chú muốn ngắm mặt cháu, nhưng cháu có phải là tác giả của cuốn sách này đâu. Cháu nghĩ chú Đức nên đưa ảnh bác Khoa. còn ảnh cháu mà đưa lên thì rất buồn cười, mọi người lại tưởng cháu háo danh, núp bóng bác Khoa để làm người nôit tiếng. Thực tình bác Khoa không biết cháu, mặc dù cháu có một cuốn ĐC có chữ ký bác Khoa, nhưng bác ấy chẳng biết cháu đâu, vì hôm ấy bác ấy nói chuyện ở Đại học Khoa học tự nhiên, hàng trăm sinh viên đưa sách cho bác ấy ký. Bác ấy ký với gương mặt rất vô cảm. Cháu không có khuôn mặt đẹp, thậm chí còn có nhược điểm, vì bên má bị rám, thuở dậy thì mới xuất hiện, bây giờ nó lan ra nửa má, cháu đang chứa thuốc nam. Có lẽ cháu sẽ là một kẻ bất hạnh. Cháu cũng không hiểu vì sao nữa.
  Gửi bởi: Nguyễn Văn Thọ - 19/01/2009

@Đặng Hoàng THu Hà,
Tôi rất xúc động khi đọc lá thư ngỏ của cháu. Đúng là, nếu văn chương khi có những độc gia nhuư cháu, nhà văn sẽ vô cùng hạnh phúc và muốn viết nữa. Tôi cung tin rằng TĐ K khi đọc những dòng này sẽ cảm thấy Đảo chìm xứng đáng tốn hàng núi giấy và những đêm trăn trở đẻ sinh thành ra nó.
Về ý cuối cùng, khi cháu nói về khuôn mặt cuả mình, tôi cầu chúc cho cháu mong chóng chữa đưoực vết rám. Nhunưg cungxin noí raừnngg với tôi cháu dù có vết nhám vãn rát đẹp. Bởi Cái đẹp chính là cái làm tôi xúc đọng. Tôi sè tìm cuốn sach Đảo chìm xuất bản gần đây nhất, đến lấy chừ kí của KHoa  kí vào kỉ niệm, tin rằng Khoa sè ung hộ 100 phan trăm ý kién nay, và gửi vào làm quà mừnng tuổi xuân cho cháu
Xin hay gửi  địa chỉ vào hộp thư toanli22@yahoo.de
Nhà văn Nguyễn Văn Thọ


  Gửi bởi: Nicô - 19/01/2009

Ông bà ta đã từng nói " cái nết đánh chết cái đẹp" mà Thu Hà. Em đừng mặc cảm về điều đó. Có nhiều người đẹp mặt, chân dài nhưng tâm hồn rỗng tuếch và vô văn hóa. Với chị cái đẹp hình thức ấy không đáng một xu. Chị quý mến em vì thấy em có tâm hồn, yêu văn thơ và biết yêu cái đẹp của cuộc sống. Chị chúc em mau khỏi bệnh và nếu cho dù nám không khỏi hẳn thì em vẫn là cô bé đẹp nhất trong lòng những khách văn yêu Đảo chìm ở trang này. Chúc em thành công!
  Gửi bởi: THU HA - 19/01/2009

Em rất cám ơn chị Nico và chú Nguyễn Văn Thọ. Em biết chị Nico là một phụ nữ đẹp, đẹp cả hình thức vóc dáng và cả tâm hồn. Chị làm thơ khá hay. Còn chú Thọ thì em đã có thư riêng. Cám ơn mọi người đã quan tâm đến em. Em là dân Hóa Sinh, nhưng rất yêu văn học. Em đặc biệt thích những sáng tác của bác Khoa cả thơ và văn xuôi, nhưng em thích văn xuôi của bác Khoa hơn, cả những bài báo hay những bài trả lời phỏng vấn của bác ấy. Nói tóm lại đấy là một con người thường xuất hiện ở đâu cũng rất ấn tượng. Còn em, bác sĩ bảo em bị nấm da. Năm 14 tuổi, nó mới chỉ xuất hiện như một nốt ruồi, sau rồi loang ra. Em đang điều trị, kết hợp cả Đông, Tây y. Em rất cám ơn chị và chú Thọ, những người giàu lòng trắc ẩn và rất nhân ái

  Gửi bởi: Nico - 19/01/2009

Ối em ơi! Chị mà đẹp thì đã không phải Nico. Tuổi trẻ phải công nhận là chị rất...khó ưa nhìn. Thôn nữ trong làng cùng tuổi tối nào chó cũng sủa vang vì trai làng nườm nượp, còn nhà chị chẳng có ma nào nên con cún con riết rồi cũng không biết sủa luôn. Mà nó cũng khôn lắm nha em, hiểu lòng chủ nên cứ có ai đến (kể cả kẻ gian) nó đều mừng ra mặt. Thế mà xem ra không ăn thua.
Rồi chẳng biết ma xui quỷ hờn thế nào mà tấm hình chị chụp chung với các bạn lại được ai đó ăn trộm tung lên báo TP, thế là ngày nào nhóm bạn chị cũng có 5 đến mười thư từ khắp mọi miền đất nước gửi đến làm quen. Bọn bạn có người yêu cả nên nó giao cho chị trả lời hộ chúng vì chúng bận hẹn hò. Chị cần mẫn trả lời bằng hết với nội dung thanh minh là ai đó đùa thôi chứ không có ý lên báo kết bạn đâu. Kê, thiên hạ, chủ yếu là các chàng trai, trẻ già không biết nhưng thư tới tấp. Họ bảo lỡ quen rồi nên thôi thì kết bạn luôn. Sau một năm thư tới thư lui, đến đoạn gửi hình thì các chàng chạy hết, còn lại đúng 2 chàng. Phải công nhận 2 anh lính rất lì, kiên quyết không bỏ chạy. Mà oái oăm là anh nào cũng đẹp trai: một anh hải quân, một anh không quân (lái máy bay chiến đấu). Đến lúc cả hai anh tỏ ra thắm thiết thì chị thấy nghi ngờ nên nhờ mẹ chị tư vấn giúp cho. Nghe trình bày xong mẹ chị kêu trời: Ui cha cha, yêu cái thằng ở dưới đất mà còn không giữ nổi nữa là yêu mấy thằng trên trời dưới biển hả con. Mai kia thằng ra biển, thằng lên trời rồi biết mô mà kiếm trong khi mi thì xấu ra ri… Tự ti nên chị đành im lặng rút lui. Năm tháng trôi qua, người xuống biển, người lên trời… đã có gia đình còn chị đành lên chùa vậy. Điều đáng quý là tình cảm bè bạn vẫn thân thiết như xưa. Giờ chị mới hiểu ra rằng mỗi người có một vẻ đẹp riêng bởi ông trời không cho ai tất cả và cũng không lấy đi của ai tất cả, điều quan trọng là ta biết phát huy vẻ đẹp của riêng mình. Chị thấy em hơi mặc cảm và chị khuyên em là không nên thế. Ngạn ngữ Nga có câu: “Đón khách bằng áo quần nhưng tiễn khách bằng trí tuệ”. Chị thấy em rất đáng yêu, vết nám ở má không thể che được vẻ đẹp toát ra từ tâm hồn em, tư cách của em. Mấy dòng tâm sự thế. Chúc em hãy luôn yêu đời và tự tin em nhé!


  Gửi bởi: Đatvinh - 20/01/2009

Thu Hà thương mến!
 Trên mang Trúc sơn trang của chúng mình ngoài mình ra còn có,bác sỹ Hoài Nhạn là bác sỹ  lâu măm là giám đốc của bệnh viện nữa đó, bạn có thể chia sẽ với mọi người nỗi buồn của mình:" nỗi buồn chia đôi nõi buồn vơi đi một nữa  Mà" hướng hồ đây hàng chục người sẵn sàng chia sẽ cùng ban.
 Riêng ý kiến của mình bệnh nám da có nhièu nguyên nhân nhưng nguyêng nhân do bạn nói thì có thể là do nội tiết tố , hoặc nấm da. Cả hai trường hợp đó đều hoàn toàn chữa khỏi. khi nào cần bạn có thể liên hệ theo địa chỉ Datvinhqt nhé.
Riêng mình tư vấn cho bạn những điều cần thiết sau ( có thể các bác sỹ khác đã tư vấn rôi):
 Thứ nhát thây đổi sắc tố da sau trong và sau thời kỳ dậy thì là phần lớn do ảnh hưởng của sắc tố da, mà sắc tố da do tuyến thượng thân thận quyết định. Do đó đẻ bệnh không phát triển cần phải không cho da tiếp xúc với tia hồng ngoại, tử ngoại  như mặt trời, đèn cực mạnh.
Sắc tố da là do nội tiết tố ở thuyến thượng thân tiết ra một chất dặc biẹt phản ứng với thời tiết ,tác nhân bên ngoài.
 Khi mắt ta bắt gặp anh nắng hoặc ánh sáng mạnh thì nõa sẽ điều tiết và tuyến thượng thận bị kích thích tiết ra chất đó để thay đổi màu da phản ứng với môi trường làm cho da đen, trắng đó mà.
 Vì vậy bạn phải đeo loại  kính đen thuốc loại tốt khi đi dưới nắng đê mắt không bị anh hưởng kích thích tuyến thượng thận. và máy vi tính phải có màng che, ti vi phải ngồi xa cách 6 lần độ lớn của nó vi dụ ti vi 20 inc thì phải ngồi cách 120 inc có nghĩa là 4 mét
 những việc trên chỉ có tác dụng hạn chế thôi chứ không khỏi.
 Muốn khỏi phải dùng thuốc theo chỉ định của bác sỉ Da , và răng hàm mặt và đôi khi mời cả bác sỹ nội tiết nữa đó.
 Khi ăn thức ăn bạn cần tránh những thức ăn tăng đọ nhờn và ra mồ hôi da như mỡ động vật ,thịt sữa, trứng ,cà phê ,ớt, rượu, bia, sầu riêng, mít, đào lộn hột vú sữa chuối vì hàm lượng đường quá cao, quá chua, quá cay.Trái lại cần ăn nhiều chất giàu vi ta min e b1 b6 b2...
 Những thứ như cà chua ,dưa  leo ,rau má,nuóc dừa, cà rốt, củ đậu( Sắn) đâu xanh, rau giá, hạt sen, thanh long, khoai lang , bom, lê,là nên. nhưng rất điều độ.
 ngòai ra trong đông y cổ truyền có bài thuốc
 Đương quy (củ) 10 gam
 cánh hoa sen , cánh hoa hông ,hoa cúc
Lá mã đề,rau má, a ti sô bông, kim ngân hoa.(thứ 20 gam)
 sắc uống liên tục
 Theo lộ trình thì cứ 130 ngày lớp da cũ bị tróc đi lớp da mới sẽ xuất hiện  thay thế màu nhạt hơn bạn cần điều trị liên tục 6tháng-1 năm  đảm bảo có nước da đẹp trắng hồng.
 ngoài ra tránh dùng nhiều hóa chất dưỡng rữa  da  bằng chất kích thích mạnh như chanh xà chanh, phòng nhé. nên rửa mặt bằng nuóc mát luôn luôn, buổi tối, buổi trưa ngủ cần đắp khăn lạnh để giử đủ độ ẩm cho da.
 Chúc bạn mạnh dạn, tự tin , và mau bình phục nhé!
 ban có thể cho mình biêt địa bàn bạn đang công tác thì tư vấn sát thức hơn.
 Datvinhqt

  Gửi bởi: Thu Hà - 20/01/2009

Cám ơn anh Đạt. Em sẽ thực hành theo bài thuốc của anh, chúc anh luôn may mắn, hạnh phúc. TH
  Gửi bởi: VŨ MINH HOÀNG - 21/01/2009

      Cảm ơn cháu Thu Hà và nhà văn Xuân Đức đã cho bạn đọc được thưởng thức tác phẩm của TĐK nhân dịp đầu xuân. Tôi đã đọc hai lần tác phẩm này. Phải nói là cuốn sách có một ấn tượng rất mạnh, đọc như bị ma ám. Tôi chưa thấy cuốn sách nào lạ như cuốn sách này. Trước hết là hình thức. Cách viết của chú Khoa rất mới. Mỗi chương là một chuyện, có thể tồn tại độc lập. Ví như chuyện "Cô tiên trên đảo" viết về cô con gái của chính trị viên Thuận. Toàn bộ chuyện con gái ông Thuận dồn trong một chương, có mở, có phát triển, rồi thắt nút, cởi nút. Nếu như nhà văn khác có thể phát triển các tình tiết, ví như các chàng trai đều phải lòng cô bé này, cũng do thiếu thốn tình cảm, mà mỗi người tưởng tượng theo một kiểu, có thể đẩy lên nữa, yêu đương, rồi ghen tuông, thậm chí tranh giành nhau, rồi lại nhường nhau, nhường cho một chàng lính nào đó bất hạnh nhất, ví như mồ côi, không có thư của người thân ở đất liền, mọi người muốn cô bé Tương này thư cho anh chẳng hạn, rồi cuối tiểu thuyết mới bật ló ra về một sự thật: Cô bé có tí tuổi, vẫn còn đang đái dầm chẳng hạn. Phải nói là rất hay, rất phong phú. Nhưng khoa không phát triển theo hướng đó, cậu ta gói gọn mọi chuyện có mở có kết trong một chương thôi, từ khi cậu Tư râu không chịu gọi Thuận bằng bố, đến khi hiểu ra sự thật, là Thuận chẳng có cô con gái nào như trong tưởng tượng của lính, mà rồi Tư lại chịu gọi Thuận bằng bố. Tình tiết rất hợp lý. Cậu Khoa đưa gọn chuyện về một chương,, lại thấy có cái thú vị khác, nó thành một truyện ngắn, truyện mini, hay là một tiểu phẩm có tính kịch. Nghĩa là tách riêng ra, cái truyện có thể đứng độc lâp thành một tác phẩm riêng biệt, nhưng gộp lại thì chương nọ làm rõ chương kia, các chương lại gắn kết với nhau thành một cuốn tiểu thuyết thực sự. Tôi gọi là tiểu thuyết, vì cuốn sách này có kết cấu trọn vẹn của một cuốn tiểu thuyết, ngôn ngữ cũng là ngôn ngữ tiểu thuyết với giọng văn rất riêng biệt, vùa rất buồn cười, như thể loại tấu nói mà lại rất xúc động. Viết giỏi lắm. Cái chi tiết tả Hai ùm cũng hóm, anh chàng cởi chuồng, nên nhảy xuống biển, làm luôn hai phát ùm ùm, Khoa nháy thêm" Có điều cái ùm sau lại to hơn cái ùm trước. Hãi thế!". Giỏi. Rất nghịch, rất lính, tả thằng cởi chuồng đi tắm mà tả thế là tài lắm. Tôi rất phục ngôn ngữ lính tráng của cậu Khoa. Tiếc là cậu này viết ít. Nhưng cũng phải thôi. Loại văn quý thế này làm sao có được nhiều. Lê Lựu khen cuốn sách này, cho là xuất thần cũng có lý. Hay lắm.
  Gửi bởi: Phạm Xuân Viên - 22/01/2009

Ba bốn hôm, tôi về quê ngoại, nay về nhà, tôi tìm ngay TST và vui quá, đọc bao ý hay của các vị xa gần, rất chia xẻ cùng THU HA trong lo toan vì bệnh rám má, nhiều vị đã cho cách điều trị, đủ thấy TH trong tình cảm các bạn TST là rất đẹp và TST đã là ngôi nhà chung mà tôi thấy không mạng nào có, dù là cá nhân hay tập thể
Tôi rất phục nhận xét của ông Vũ Minh Hoàng, quả là nhà phê bình văn học có tài, phân tích quá hay, tôi chỉ cảm thấy mà không biết cách nói cho ra vấn đề, rằng đây là cuốn hay nhất hoặc trong số hay nhất độ vài ba quyển tiểu thuyết của VN, tuy thế, tôi vẫn cho nó là cái hay nhất trong vài ba cái hay nhất mà theo báo chí ken, tôi đã tìm đọc. Còn các giải, tôi không bận lòng, vì nói chung, các tác phẩm hay, ít khi có giải.
TDK viết cái này hay thật, hay lắm lắm, chắc chắn sẽ còn mãi cùng các thế hệ sau, vì tài năng hiếm có và tấm lòng rất cao đẹp của tác giả.
Vinh quang thay, Hải quân Việt Nam !

  Gửi bởi: Đỗ Duy - 22/01/2009

Nhân cháu THU HÀ nói về cuốn tiểu thuyết của bác Khoa không có cái giải gì, cã lẽ vì thế mà nó càng hay. Nam Cao phải nói là nhà văn vĩ đại mà khi sống chỉ cắp tráp cho ông Tô Hoài, Vũ Trọng Phụng còn bị vu cáo rất tồi tệ sau khi chết, nay ai cũng cho ông là một thiên tài. Nguyến Bính, thủa 30 - 45 chỉ có giải khuyến khích, mãi năm 60- 61 gì đó, nhận giải 3 của báo Văn Nghệ, có lẽ là giải cao nhất khi ông sống, rồi chết đói chiều 30 tết tại nhà bạn, khi chôn chỉ có vài ba vị, không kèn không trống, ( con gái ông thuật lại thế ) nay nếu chọn 1 thi hào tiêu biểu của VN, tôi chắc là ông thôi.
Số phận các tài năng vẫn vậy mà, THU HÀ à !

  Gửi bởi: TRƯƠNG HÒA BÌNH - 23/01/2009

       Cuốn sách của ông khoa vừa lạ lại vừa hay. Phần đầu là lạ. Phần sau là hay. Phần đầu là phần nào? Đó là những chương, hay là những mẩu chuyện, những tiểu phẩm giới thiệu về hòn đảo này. Nó lạ, vì không có hòn đảo nào như thế trên cõi thế gian này. Đảo gì mà lại chìm dưới nước. Nếu nó chưa nổi lên thì sao gọi là đảo? Phải gọi là giải đá ngầm chứ. Đây là giải đá ngầm, nhưng lại không phải giải đá ngầm. Vì nếu là giải đá ngầm thì ai gìn giữ làm gì? Nhưng hòn fđảo này lại được gìn giữ, vậy thì nó không còn là đá ngầm, nó là đảo, là mô hình một xã hội tương lai. Nhưng phải một trăm năm nữa nó mới ra đời. Kinh khủng. Nếu đây là chuyện viễn tưởng thì cũng đã hay. Nhưng nó lại không phải viễn tưởng. Nó là một xứ sở có thật ở Việt Nam. Chính vì thế mới kinh khủng. Tự thân nó đã có một ý nghĩa, là ý tại ngôn ngoại, có lẽ cũng là ý tưởng của ông Khoa mà cháu Thu Hà đã một lần nói toạc ra. Ông Khoa đúng là một Bá Nha đã có Tử Kỳ. Ông may mắn hơn rất nhiều nhà văn khác. Đó là phần lạ của cuốn sách. Còn phần hay là khi bắt đầu xuất hiện con lơn, mà lính tráng Đảo chìm gọi là nàng An taimena. Nàng An ta là nhân vật hay nhất, đặc sắc nhất của cuốn sáh, cũng là điểm để ngòi bút ông Khoa xuất thần. Con lợn đẻ. Ông Thuận là chính trị viên, nên ông nhìn sự kiện lợn đẻ thành một sự kiện chính trị. Đảo chìm không phải xứ sở hoang dại. Đảo chìm đã có sự sống. Mặc dù có có bao nhiêu người lính đã sống và đã chết cho cái xứ sở này, mà chết rất vu vơ, những cái chết dường như rất vô nghĩa. Đó là cái chết của Thiêm. Rồi sau đó là Hai, một chàng chai bơi giỏi nhất đảo. Ông Khoa viết rất kỹ, rất tinh qua một chi tiết khi miêu tả chim biển, khi ông Khoa (nhân vật) xuất hiện, bầy chim làm loạn lên vì có hơi người. Hai bảo, "ngày mai, lũ chim sẽ bơ ông anh ngay". Rồi ông Khoa đẩy lên một nấc nữa, qua một ý nghĩ nội tâm, nhưng đọc thấy lạnh người: "Chả lẽ ngày mai tôi không còn hơi người nữa ư?". Kinh khủng. Và chính vì thế, việc lợn đẻ rất bình thường, thậm chí là vớ vẩn mới trở thành sự kiện. Đảo kéo còi tàu, thắp đuốc. Liên hoan. Nhưng liên hoan tiết kiệm, không dùng nước ngọt, mà chỉ, ngày mai tất cả đều mặc quần áo, "không đứa nào được cởi chuồng!". Hay đến kinh hoàng. Vừa rùng rợn, vừa hài hước, vừa xót đến quặn thắt cả gan ruột. Rồi bày lợn chết hết, chỉ còn sống mỗi con mà lính gọi là nàng An ta...Sự phản ững của đám lính khi xuất hiện. Người yêu con lợn như Hai, có thể "hi sinh" trang phục của mình để may cắt bộ váy áo cho lợn, tạo thành một nghịch cảnh, con lợn thì xúng xính mớ bảy mớ ba, còn thằng người lại cởi chuồng lồng lỗng. Rồi đảy lên nữa qua một chi tiết, lợn được chia 4 lít nước ngọt, trong đó người lại chỉ có hai. Con người không bằng con lợn. Tư là anh quản lý, chỉ nhìn con lợn như một cái máy "ngốn" nước ngọt, nên tìm mọi cách tiêu diệt "con nặc nô". Và khi con lơn động đực,nhảy cả xuống biển, lính nhao xuống vớt trong vùng biển có rất nhiều cá mập, Tư đã nhân cớ đó "đánh " vào lòng trắc ẩn của chính trị viên, và Tư chơi đòn chính trị, quy kết chính trị viên coi lính không bằng tính mạng con lợn. Đến lúc đó, chính trị viên Thuận mới quyết định xử trảm con lợn, nàng An ta kiều diễm, một nghệ sĩ lừng danh của của xứ đảo chìm. Chương giết lợn ông khoa viết cũng rất giỏi, khi kề con dao vào cổ lợn, con lợn lại tưởng con người đang đùa với mình, thế là máu nghệ sĩ được đánh thức, và cô nàng lại tung mình biểu diễn, mua vui cho con người ở cái xứ sở chẳng biết lấy gì để làm vui. Một nghệ sĩ tài danh như thế, chỉ có ăn com thừa canh cặn để lột hết tâm hồn mình thành những vẻ đẹp tinh thần sao lại nỡ giết đi? Con người có còn là con người không? Hay đã là ác thú. Không ai giết nổi con lợn, kể cả Tư, người chủ mưu tiêu diệt con lợn này. Tôi chỉ tiếc phần cuối, ông Khoa bỏ quên con lợn. Khi Hia mất, lúc ấy con lợn ở đâu? Tâm trạng nó thế nào? Tiếc là ông Khoa đã bỏ lửng. Đấy là điểu khiếm khuyết, đáng tiếc nhất của thiên truyện đặc sắc này. Vì thế, Đảo chìm rất hay, tuyệt hay, nhưng không hòan hảo. Rất tiếc.
  Gửi bởi: Phạm Xuân Viên - 23/01/2009

Ông Vũ Minh Hoàng phân tích cái DC đã tài, đến ông Tr. Hòa Bình càng tài khi nói về tác phẩm của Tr D K. Đến thế là cặn kẽ, có lí đấy. Hai chết là hết chuyện, có lẽ vì K muốn trung tâm chú ý của bạn đọc phải là con ng. Tôi đoán thế ko biết có đúng ko ?
Ông THB viết sâu sắc rất có chuyên môn, hay lắm. Cuốn sách của TDK làm bộc lộ thêm bao tài năng khác còn ẩn khuất, cũng là cái hay ngoài DC của DC, mà tôi thấy VN ta ko có cuốn tiểu thuyết nào có cả. ĐC vì thế lại càng hay. Phải ko ?

  Gửi bởi: Trần Xuân Ngọc - 24/01/2009

       Bữa nay mới có dịp trở lại Vườn Trúc Anh Đài, thấy kinh ngạc là có đến hơn 200 người trong quán. Chắc toàn dân Hải ngoại. Tôi cũng là hải ngoại rởm vì đang công tác tại Hoa Kỳ. Ở nhà bây gờ mới 3 giờ đêm, chắc mọi người ngủ rồi, kể cả ông chủ quán, nhà văn Xuân Đức có biệt danh Lão Trang, nhà triết học cổ vĩ đại Trung Quốc, chắc cũng đã đóng cổng ngủ rồi. Tôi rất bất ngờ khi đọc lời bình của ông Trương Hòa Bình, ông phát hiện được rất nhiều cái mới, nhiều điều mà đến cả bác Khoa chắc cũng phải giật mình. Tôi công nhận cuốn sách của bác Khoa rất lạ và hay. Nói thế thì đúng, nhưng cách chia rạch ròi theo kiểu bác Bình thì tôi lại thấy không ổn khi bác bảo phần một người lạ, còn phần sau lợn hay. Đừng rạch ròi thế. Làm máy móc vạy, cái nhận xét rất đúng của bác ở mặt đại quát lại rất sai khi nằm ở tiểu quát. Nói thế, chả lẽ chỉ có lạ mà không hay ư? Ngay trang đầu thôi, chuyện ông tướng với cậu lính, chả lẽ không hay ư ? Người lính buông neo cho Tổ quốc khỏi trôi dạt. Tôi thấy tuyệt vời. Hiện nay không có giông bão cuồng phong, nhưng Tổ quốc lại đang trôi dạt đấy. Chỉ những người lính và những người Việt chân chính mới buông neo, chấn dữ đê Tổ quốc khỏi bị trôi dạt thôi. Viết thế là hay chứ. Nói cứ chơi chơi mà rất sâu sắc. Nó gợi cho ta nhiều vấn đề cần suy nghĩ về đời sống hiện tại của đất nước có nhiều vấn đề rất đáng nguy lo. Một ý tưởng có tính tỉnh thức như thế chả lẽ lại không hay ư? Vậy thì sao lại tách ra rồi phân định chỗ này hay chỗ kia lạ. Nói thế, chả khác gì mang một em Hoa hậu ra phân chia, rằng phần miệng em thơm, còn hậu môn em rất thối. Hoặc "đổi mới" hơn thì chơi trò lộn ngược, rằng hậu môn em rất thơm, còn cái miệng em rất thối. Bàn về cái trò rạch ròi khoa học rởm này, nhà phê bình Xuân Diệu đã nhận định rất đúng và đã dạy chúng ta trong cách phê bình: "Ai đem phân chất một làn hương - Hay bản cầm ca, tôi chỉ thương - Chỉ muốn chuồi theo dòng cảm xúc - Như thuyền ngư phủ lạc trong sương...". Đúng thế đấy, bác Trương hòa Bình ạ.
  

  Gửi bởi: Phạm Xuân Viên - 24/01/2009

Tôi là lính biển,  đọc ĐC thấy trang nào cũng hay, có nhiều trang tôi thuộc lòng, thuộc lúc nào cũng không biết. Tôi chỉ biết hay, hay lắm, thích vô cùng, còn phân tích thì tôi chịu. Tôi thấy lần này có thêm ông Trần Xuân Ngọc, viết cũng rất hay, đáo để một tí mà đúng cả đấy. Sao TST lắm anh tài thế. Lí lẽ sắc đến nỗi dao cạo phải gọi bằng Cụ. Bạn đọc mà thế thì đáng phục thật. Tôi cũng đọc nhiều bài phê bình của các nhà chính hiệu mà thấy nhạt phèo không bằng TST của ta. Tôi nói thật đấy!
Tuyệt diệu thật, đúng không, nhà văn XD rất thân yêu của chúng ta !

  Gửi bởi: Xuân Đức - 24/01/2009

He..he.Ít ra thì ta cứ tự khen nhau cái đã. Cái ta hơn đứt các nhà phê bình chuyên nghiệp là không văng các thứ vào mặt nhau. Đúng không bạn Phạm xuân Viên ? Chúc ăn tết vui vẻ !
  Gửi bởi: Trương Hòa Bình - 24/01/2009

Tôi biết Lão Trang không đưa commen lên nữa, chắc là nghỉ tết, nhưng tôi vẫn nói thêm, vì cuộc bàn thảo đang có những vấn đề rất cần được tranh luận. Ý kiến khác nhau là bình thường. Chúng ta đều quý cậu K cả, đều yêu trang Web Xuân Đúc. Nếu có khác nhau trong việc cảm nhận cũng là một điều hay. Một cuốn sách hay có thể có hàng ngàn cách đọc. Tôi chia mảng đầu lạ, mảng sau hay, là vì muốn cụ thể hóa, để diễn tả cảm giác của tôi, theo tôi, câu chuyện bắt đầu có chuyện từ khi xuất hiện con lợn. Quả là độc đáo. Thấm thía và đau. Rất đau. Nhưng bao phủ lên tất cả là một màn sương hài hước. Cái này tài lắm. ÔNG Ngọc bác lại tôi, nhưng lại đánh tráo hiện trường, cho rằng phần người lạ, phần lợn hay. Nói thế là thành vấn đề rồi. Tôi có phân biệt người với lợn đâu và tôi cũng có nói thế đâu. Rồi ông ấy lại xáo trộn hiện trường lần 2 qua việc ví dụ cụ thể giữa hai phần cái miệng và hậu môn hoa hậu. Không nên. Ông Ngọc đanh đá quá,  Tinh thần của tôi không phải thế. Mặc dù ông Ngọc không có dã tâm, nhưng cái lưỡi ông nhọn quá., rát dễ làm cho người khác bị thương..
  Gửi bởi: TRẦN XUÂN NGỌC - 25/01/2009

Tôi thực sự áy náy khi có mấy lời lại làm bác Trương Hòa Bình "bị thương". Bác là hòa bình, thích hòa bình, mà tôi lại gây chiến.. Đúng là tôi đắc tội, nên dù ngày Tết, tôi cũng cầu mong Lão Trang đưa nốt ý kiến của tôi để cho giữa tôi với  với Trương có một cái Tết vui, coi như xí xóa hết mọi liu điu bực bội trước giao thừa. Tôi không phải nhà phê bình, cũng không phải là dân văn chương, bạn tôi cũng không có ai là nhà văn nhà báo. Tôi là anh thợ điện, thực ra là anh công nhân chiếu sáng, tức là anh đi lắp đèn điện cả các công trình công cộng và tư nhân. Lắp đặt theo sơ đồ, thiết kế của người khác. Bác Trương bảo tôi có cái lưỡi nhọn, tôi buồn cười quá, thực ra tôi chỉ có một nửa lưỡi. Có lưỡi đâu mà nhọn. Tôi một lần sơ xảy, bị điện giật, co rụt lưỡi vào. Xuýt toi mạng. May mà cái phúc của nhà tôi cũng lớn quá, nên không chết. Bây giờ tôi nói ngọng, nói không tròn vành rõ chữ đâu. Nói bằng tay bấm phím thì lại mạch lạc hơn là nói bằng lưỡi. Tôi nói thế để xin bác Trương thông cảm. Quả thật, tôi rất thích cuốn sách của ông Khoa. Tôi cũng chưa nhìn thấy ông Khoa một lần nào ở ngoài đời. Mà nghe nói ông này văn hay, nhưng ngoài đời thì kiêu lắmi. Tôi cũng chẳng có việc gì phải gặp ông Khoa, nhưng cuốn sách của ông ấy thì quả thật đọc thú thật, tôi lần đầu đọc ở chỗ Xuân Đức. Rất hay cho đời sống hiện đại có những trang báo rất hay mà lại không mất tiền, đọc miễn phí, nên tôi mới có dịp biết ĐC. Thích mà thấy các bác bàn thì cũng chõ mồm vào, thế thôi, chứ chả có ý đồ gì cả. Chúc bác Đức có cái tết thật vui, chúc bác Trương Hòa Bình cứ mang hòa bình đến cho mọi người. Bác cay ca mấy nhời mà em rôm xảy nổi khắp người. Bác Đức mà không đưa mấy nhời này lên nói lại để bác Bình có được cái Tết hòa bình, thì coi như em cũng mất Tết.
  Gửi bởi: Không mặn không nhạt - 25/01/2009

Một truyện ngắn, một tiểu thuyết, một bài thơ... Chúng cũng như... món ăn ấy mà.
Người khen ngon, người nói bình thường, người bảo rằng mặn, người nói nhạt.
Chuyện là ở khẩu vị từng người, cảm nhận và thú ẩm thực của từng người.
Hiểu thế thì ta thấy không lên án ai về việc họ nhìn món đó mặn hay nhạt, hay nói gì khác. Ta nghe, và ta cảm nhận theo mình, có quyền gì mà bảo ông A rằng tại sao ông nói mặn mà tôi thì thấy nhạt. Âu là ăn mặn, ăn nhạt có giống nhau đâu.
Tôi chỉ buồn cười cho những ai a dua, theo hùa mà khen những cái đáng ra chỉ là bình thường thôi.
Thấy ông A là người sành điệu có tiếng có tăm ông ta khen là món của ông K ngon, ông  B cũng theo hùa ông A, để cho ra vẽ ta cũng hiểu đời hiểu văn, hiểu món rồi... tâng lên trời xanh món của ông K. Đấy mới buồn cười.
Nhiều khi tác giả hình hài đứa con của mình chỉ đến thế; còn người a dua lại tô thêm nhiều nhiều màu, nhiều nhiều mè vào nữa, mà đến ngay cả tác giả thấy lời khen cũng buồn cười, thậm chí thấy xấu hổ với lời khen đó, nếu tác giả là người công bằng với chính đứa con mà hình hài nên!
Tôi đọc tiểu thuyết của TDK một lần thôi, đọc lại lần hai không có hứng gì nữa.  Nhiều cái vô lý, khác với đời thực. Tôi không biết trong văn chương phải tô vẽ, hình thức hóa, khái quát hóa là gì gì... tôi không biết, nhưng người ta nói "nhà văn nói láo, nhà báo nói thêm" là chuyện xưa nay.  Đọc "Chân dung và đối thoại" mới thấy cái "người ta nói ' là đúng như:... người ta nói.
Khen ông KHoa có nhiều người, và chê ông Khoa cũng có rất nhiều người. Cái đó không có gì lạ ở đời cả. Vậy độc giả đừng lời lời khắt khe với nhau, so tiền môn, hậu môn, kinh lắm... kinh lắm.

Tự các ông lộ thân phận ăn nói của mình ra!

  Gửi bởi: TRẦN XUÂN NGỌC - 26/01/2009

      Tôi đồng ý với ông hay bà "không mặn không nhạt", cái trò đáng chán, thậm chí đáng lên án là cái trò a dua. Thấy có ai khen thì cũng chen vào khen. Nhưng khi có người chê thì xúm vào đánh đòn hội chợ. Cái đó rất xấu. Nhưng cái trò rất không hay này phần lớn lại diễn ra ở giới phê bình, thậm chí cả giới sáng tác, và trong giưới sáng tác còn thêm cái trò đố kỵ, không bao giờ chịu công nhận người khác, hoặc những ý kiến khác mình. Đấy là chuyện trong giới văn chương, còn chúng tôi, những bạn đọc vô danh, có ghé qua vườn Trúc, thì lại hoàn toàn khác. Chúng tôi không phải giới văn nghệ, chẳng phải nịnh bợ ai, cũng không thù ghét, ghen tuông với ai. Đọc sách thích thì khen, không thích thì chê. Khen hay chê đều rất vô tư. Chúng tôi cũng chẳng cần phải tâng bốc ai cả. Tất nhiện, cách cảm nhận mỗi người mỗi khác. Vì thế không nên lấy khẩu vị rất chủ quan và thậm chí là rất méo mó làm thước đo người khác. Rồi áp đặt ý kiến chủ quan của mình, thậm chí lại lấy mình làm thước đo nhân loại. Ai khác đi là phủ nhận. Điều ấy rất xấu
  Gửi bởi: ĐẠNG HOÀNG THU HÀ - 27/01/2009

     Cháu rất vui khi mọi người đến với Đảo chìm rất đông. Chỉ có chừng non mộ tuần mà gần bốn ngàn người đọc. Những cuộc thảo luận và cả tranh luận về Đảo chìm cũng rất thú vị. Trong một tạp chí về biển cách đây chừng chục năm, có in một bài báo của bác Khoa viết về việc đi tìm người trôi dạt trên biển cũng rất ấn tượng, cháu sẽ gõ lâi và ngày mai sẽ đưa vào comment đẻ mọi người cũng chia sẻ. Chúc Trúc Sơn Trang có một cái Tết thật vui. T.H
  Gửi bởi: THU HÀ - 28/01/2009

Kính gửi nhà văn Xuân Đức và các cô chú Trúc Sơn Trang.
Cháu đã điều trị theo cách chỉ dẫn của anh Đatvinh và thấy rất hiệu quả. Tất nhiên cháu còn chữa bệnh tổng hợp kết hợp cả Đông Tây y. Rất cám ơn anh Đạt, cám ơn chị NNicô đã chia sẻ, an ủi, cả chú Nguyễn Văn Thọ nữa. À mà sao lại là chị Nicco nhỉ? Chị có quy chùa thật không? Cháu sưu tầm được một bài báo ngắn in trên Tạp chí Biển của bác Khoa, viết về một chuyến tìm kiếm bạn bè trên biển, cháu nghĩ là bài viết này cũng rất đáng được tham khảo, để hiểu thêm những hiện thực khác nghiệt của những người lính Đảo chìm. Cháu không phải lính biển, nhưng đọc cháu thấy thật lắm, cũng như cuốn Đảo chìm. Còn cũng có người cho rằng Đảo chìm chỉ đọc được một lần, lần sau không còn hứng vì nó không phải như thực tế. Cháu chẳng biết thực tế như thế nào, nhưng đọc cháu thấy xúc động, và thấy rất thật. Thêm nữa, chú Phạm Xuân Viên từng là lính đảo, lính biển, thấy thật thì cháu tin là thật, cháu tin người trong cuộc hơn khách vãng lai.
CHUYỆN Ở MIẾU THỦY THẦN

                        (Rút trong sổ tư liệu)
Trần Đăng Khoa

                                                           
                                                            I
Tôi không phải là một kẻ duy tâm. Thủ trưởng của tôi, Đại tá Nguyễn Văn Định, Trưởng phòng Tuyên huấn Hải quân, cũng chẳng bao giờ tin rằng ở trên đời này lại có thánh thần hay ma quỷ. Anh bảo: "Mình đồng ý với cậu là trong mỗi một gia đình cần phải có một cái bàn thờ. Tết nhất hay ngày rằm, mồng một thì thắp hương, cúng giỗ. Đó là những việc làm cần thiết, là sợi dây nối ta với ông bà tiên tổ. Không có bàn thờ là không còn ra căn nhà. Bàn thờ chỉ có ý nghĩa như thế, chứ đấy đâu phải là nơi ngự trị của các linh hồn. Chết là hết. Làm gì có thế giới bên kia. Nếu thật sự có thế giới bên kia, thì đời sống của chúng ta không thể có được sự yên ả như thế này đâu. Vì ân oán nhiều lắm. Nếu có linh hồn thì tại sao những kẻ bạc ác vẫn cứ sống vương giả mà những linh hồn oan khuất lại không thể làm gì được?". "Có lẽ do sự cách biệt của thế giới âm dương chăng? - Tôi tỏ vẻ băn khoăn - Anh sẽ giải thích như thế nào về những hiện tượng đặc biệt. Đó là những người có khả năng nói chuyện với những người đã khuất. Họ tìm mộ rất chính xác. Hỏi bí quyết thì họ bảo: Tôi chẳng tài cán gì đâu. Người chết bảo sao thì tôi nói lại như vậy. Chính họ cho địa chỉ. Cứ theo sự chỉ dẫn của họ mà tìm". "Bịp bợm! Người chết không thể vạch mặt kẻ bịp bợm nên muốn nói sao thì nói. Cậu lại đi tin những trò nhảm nhí ấy à?". "Tôi không tin, nhưng cũng không giám phản bác anh ạ. Vì có thể cả tôi và anh đều không có những khả năng đặc biệt ấy. Cũng như "thằng" BBC vẫn phát sóng hàng ngày ở Băng hai. Nhưng cái đài của tôi và anh lại chỉ có mỗi một băng, nên không thể bắt được. Rà mãi cũng không thấy. Thế là chúng ta có thể khẳng định: Bằng kiểm chứng khoa học qua cách dò làn sóng, ta có thể khẳng định, không có đài BBC.Nhưng thực chất, cái đài BBC vẫn tồn tại đấy thôi". "Cậu lại nguỵ biện rồi - Đại tá Nguyễn Văn Định cười điềm đạm -  Đài BBC và linh hồn người chết là hai lĩnh vực rất khác nhau. Không nên đánh tráo khái niệm và xáo trộn hiện trường. Nếu có linh hồn thì chắc con người đã tìm được ra cách kết nối mà không cần đến giới thầy cúng. Chẳng có gì là bí mật trước sự khám phá của con người".
Vâng, tôi cũng tin như thế. Ấy vậy mà rồi lại có khoảnh khắc, cả tôi và Trưởng phòng Tuyên huấn Nguyễn Văn Định đều thấy cuộc đời không đơn giản như vậy. Hình như vẫn đang tồn tại một sức mạnh huyền bí nào đó. Sức mạnh ấy lại nằm ngoài tầm kiểm soát của con người.


                                                II
Chuyện ấy xảy ra ở miếu thờ thuỷ thần. Tôi đã kể một phần trong cuốn Đảo chìm. Đó là một chuyện thật mà tôi không hề bịa đặt, hư cấu. Bây giờ thì tôi xin kể tiếp cái phần mà cuốn sách không đề cập đến. Sự việc rất ngẫu nhiên. Bắt đầu từ khi Thiêm, cậu lính trẻ của đảo mang chăn ra biển giặt. Thế rồi bất ngờ, một con sóng ào đến, cuốn chiếc chăn ra xa. Thiêm nhào xuống vớt chăn. Túm được mảnh chăn rồi thì Thiêm không còn sức bơi vào đảo nữa. Biển cả không hề êm đềm như Thiêm nghĩ. Chẳng mấy chốc, cu cậu đã chới với bên mép san hô. Nghe tiếng kêu cứu của Thiêm, Trung đội trưởng ào xuống ứng cứu. Rồi tiếp theo là Chính trị viên, rồi Đảo trưởng...Lần lượt bảy con người. Cả bảy con cá kình ấy đều bị sóng cuốn. Đảo báo động khẩn cấp. Tầu trực chiến quần lượn suốt mấy ngày trời mới vớt được sáu người lính trôi dạt. Còn Thiêm thì vẫn chẳng thấy đâu.
Sang đến ngày thứ tám, chúng tôi đinh ninh là Thiêm đã chết. Theo kinh nghiệm của những người đi biển lâu năm, những người chết đuối, xác thường dạt vào những bãi nổi. Chúng tôi lần đến các bãi nổi. Rồi điện cho những hòn đảo lân cận, báo cho các đồng đội, cùng tham gia tìm kiếm. Mặc dù vẫn chẳng thấy gì hết ngoài những vỏ ốc, vỏ sò, vậy mà chúng tôi vẫn sục sạo tìm kiếm.
Con tầu tiếp tục đi. Đi xa lắm. Và cuối cùng, chúng tôi dạt lên một hòn đảo đá. Hòn đảo không có người ở. Một vách đá sừng sững như trường thành. Nép bên vách đá là một ngôi miếu thờ thuỷ thần. Ngôi miếu chẳng biết được xây cất từ đời nào. Xi măng trát tường đã tróc loang lổ và mủn như rêu. Trời đang nắng. Nhưng trong miếu vẫn lạnh toát và lúc nào cũng âm âm tối. Bùng biêng treo trong miếu là những hình tầu thuyền bằng giấy xanh đỏ, rồi những hình nhân mặt người đuôi cá. Trên bệ thờ, mấy xấp tiền giấy xếp chồng lên nhau, dày đến hàng gang tay. Không phải tiền âm phủ. Mà là tiền thứ thiệt. Tiền tươi hẳn hoi. Thôi thì đủ loại. Tiền Nguỵ. Tiền của Miền Nam khi vừa giải phóng. Tiền Miền Bắc. Tiền mới VN Đ. Rồi dollas. Rất nhiều dollas. Có đến hàng mấy xấp. Lớp tiền ở phía dưới đang mủn ra, hoá mùn. Có lẽ những người dân chài, hay cánh di tản nào đó qua đây, cúng thuỷ thần, cầu mong ngài phù hộ thuận buồm xuôi gió chăng? Anh Định kêu lên: "Phí quá cậu ạ! Cả một núi vàng đang tự tiêu huỷ". Tự dưng trong tôi bỗng nảy lòng tham rất trần thế. Tôi bảo Trưởng phòng Tuyên huấn: "Hay là ta mang số tiền VN Đ và dollas này về cho một trại trẻ mồ côi nào đó. Một đống tiền như vậy mà bỏ đi thì uổng quá. Dân mình nhiều người vẫn còn đang đói"
Anh Định cũng nghĩ làm như vậy là phải. Nhưng rồi, cả tôi và anh Định, chẳng ai nghĩ đến việc lựa chọn những đồng tiền có thể tiêu được, khi chợt nghe tiếng gió u ú rú lên trong các hốc đá sau miếu. Ngoài kia, biển vẫn mù mịt sóng. Con tàu lấp liếng trao lắc, trông nó mỏng manh như một chiếc vỏ đỗ. Sóng vẫn ào ào ném lên mép cát những mảnh vỉ buồm rách nát, những chiếc dép trẻ con, những mảnh vỏ sò, vỏ hến rồi cả những rảnh xương người. Những rảnh xương trắng xoá và mòn vẹt...
- Cậu có mang theo tiền không?
Anh Định bỗng nhiên hỏi tôi. Tôi thực sự lúng túng. Đi biển thì có tiêu được gì đâu mà mang theo tiền. Tôi chẳng có đồng nào. Anh Định chắc cũng thế. Anh lặng lẽ lục khắp các túi. Rồi đột ngột, anh rút bao thuốc Vinataba đang hút giở, đặt lên bệ thờ. Tôi bỗng rùng mình. Mồ hôi túa lạnh ngắt. Tôi không biết hút thuốc. Trong người chỉ có mỗi một cây bút bi và cuốn sổ tay đang ghi dở. Bắt chước anh Định, tôi cũng trịnh trọng đặt cây bút, cuốn sổ tay và chiếc đồng hồ lên bệ thờ. Lúc đó là 13 giờ 17 phút chiều ngày 17 tháng 6 năm 1981. Tôi không phải kẻ mê tín. Anh Định cũng như tôi. Chúng tôi tuyệt nhiên không tin, không bao giờ tin trên đời này lại có ma quỷ hay thánh thần...





  Gửi bởi: BẠN ĐỌC, KHÁCH VÃNG LAI - 29/01/2009

        Cám ơn cháu đặng Hoàng Thu Hà. Bài báo hay và rùng rợn quá. Giá ông Khoa nhấn thêm, tả kỹ thêm về những mảnh xương người mòn vẹt hất lên bãi cát thì chắc bài báo còn hiệu quả hơn nhiều. Xương của những người lính như Thiêm, như Hai đó thôi. Bao nhiêu người đã chết trên biển. Ghê thật. Ông Định với ông Khoa "cúng" thuốc lá với bút là do sợ, do thấy mạng người là quá mong manh so với biển cả. Nhưng tôi thì hoàn toàn tin có thế giới bên kia. Tôi đã trực tiếp nhờ các nhà ngoại cảm tìm mộ, cũng qua nhiều cuộc gọi hồn của cô Bích Hằng. Ai không tin có thế giới bên kia là ngu xuẩn. Ông Đức nên đưa lên trang báo rất hay ủa mình những bài viết về thế giới tâm linh để khai tâm và mở mang dân trí.
  Gửi bởi: Phạm Xuân Viên - 02/02/2009

Do í kiến của ô Ko mặn ko nhạt mà tôi đọc lại ĐC, dù đã đọc đi đọc lại nhiều lần, tôi thấy càng hay, dù tôi không biết phân tích rành rọt , tôi biết tôi đã khen đúng, ko hề a dua. Ô KMKN nói có lẽ đúng trong sinh hoạt văn hóa của các ô cùng hội cùng thuyền của ô, còn chúng tôi thì ko vậy đâu. Vô hình chung ô xúc phạm chúng tôi đấy, Vốn là người lính biển, tôi thấy TĐK viết hay vô cùng và đúng là lũ lính biển chúng tôi vui tếu và hi sinh gian khổ vậy đó.
Cái Miếu thủy thần do TH cung cấp cũng rất hay. Trong TĐK thâm căn cố đế là lính biển nên viết về lính biển ngòi bút có thần. Ko ai viết hay đến vậy là vì TĐK có tài, đặc biệt có tấm lòng thật, hiểu biết thật, xúc cảm thật, nghĩa là có cuộc sống thật. Bao chiến công của chúng tôi qua đi, còn lại gì cho muôn sau có lẽ là do cái tài cái tâm của TĐK vậy.
Vì thế, chúng tôi yêu mến TĐK

  Gửi bởi: VŨ MINH TÂM - 07/02/2009

Đọc lại Đảo chìm vẫn thấy rất thú vị. Cách viết của TDK rất hiện đại. Cả một cuốn tiểu thuyết, đề cập đến rất nhiều vấn đề, lại gợi những liên tưởng lớn hơn ở bên ngoài cuốn sách mà chỉ có mấy chục trang sách khổ nhỏ. Văn hiện đại tôi nghĩ nên thế. Ngay cả những cuốn sách kinh điển ngày xưa, bây gờ người ta cũng phải viết lại, co lại cho ngắn để phù hợp với bạn đọc hiện đại. Cuốn sách ông Khoa là một minh chứng cho lối viết này. Mặc ai khen chê thế nào, tôi thấy cuốn đảo chìm rất đáng được mang ra mổ xẻ, nghiên cứu.
  Gửi bởi: TRƯƠNG HÒA BÌNH - 13/02/2009

Đọc bài thơ của Xuân Đức tặng vợ nhân ngày tình yêu rất cảm động. Không ngờ vợ chồng anh vất vả quá. Tôi cầu mong chị nhà chóng khỏi bệnh. Có một người chồng chu đáo, giàu tình cảm như anh, tôi tin là chị sẽ chóng lành. Tình cảm cũng là một loại thuốc tiên đấy anh Xuân Đức ạ
  Gửi bởi: LUU TRỌNG ĐÀM - 21/02/2009

Tôi là một lính biển, đã nhiều năm làm bác sĩ ở Trường Sa. Tôi đã xem phim Đảo chìm do Xưởng phim Quân đội nhân dân chuyển thể từ tiểu thuyết của Trần Đăng Khoa. Nhưng thú thật, tôi không thích cái phim vì nó rất khiên cưỡng và rất giả. Từ đó, tôi không đọc cuốn sách, dù vợ tôi có mua và quảng cáo với tôi rất rầm rĩ rằng sách hay lắm, buồn cười lắm. Tôi không đọc, vì mình đã biết cốt truyện qua cuốn phim cùng tên rồi. Bởi thế bữa nay trực ở bệnh viện, ngày nghỉ nên vắng bệnh nhân, mới vào mạng đọc thử, thấy bất ngờ vì cái truyện hay thật. Tôi rất thích những trang đối thoại của ông Khoa, vì thấy nó rất sống động, rất lính. Có lẽ sau Phạm Tiến Duật, đây là cây bút giàu chất lính nhất, mà là lính trẻ. Khá thật, mặc dù ông Khoa ở Hải Quân có mấy năm thôi, và ông ấy cũng đi đảo lớt phơt lắm, chứ không đằm mình như tụi lính tráng thật sự chúng tôi. Điều đặc sắc nhất của cuốn truyện ông Khoa có lẽ lại là hình thức. Hình thức rất lạ. Tiểu thuyết là những mảu chuyện nhỏ, nhiều chuyện cũng bình thường ở dạng hoạt kê, cảm giác thấy gì kể nấy, kể vui vui, nhưng gộp lại, đọc liền mạch thì thấy hay và thâm thúy thật. Văn ông Khoa cũng gọn. Một cuốn sách đặt ra một vấn đề rất lớn, mà ngắn choặn có mấy chục trang, cũng như cuốn "Ông già và biển cả", tác phẩm đoạt giải Nobel của Hêminhuay cũng rất lớn mà đâu có dài. Tôi nghĩ văn hiện đại là nên ngắn, ít chữ nhưng dung lượng thông tin lại lớn. Nhiều cuốn như "Những người khốn khổ", "Đongkisot" cũng được những nhà văn hiện đại thời nay rút gọn lại để in thành những cuốn sách bỏ túi. Tôi đọc những bản rút gọn của người đời sau lại thấy thích hơn đọc nguyên tác dài khượt, cà rầm cà rề. Bây giờ, các nhà văn viết tiểu thuyết cũng nên viết ngắn, những cuốn tiểu thuyết đặc sắc nhất của Việt Nam đâu có dài, như "Số đỏ", "Tắt đèn", "Bỉ vỏ" chẳng hạn. Văn hiện đại nên như thế.
  Gửi bởi: VÂN HÒA - 22/02/2009

Cám ơn nhà văn, nhà thơ Xuân Đức đã đưa cái tiểu thuyết mini của Trần Đăng Khoa lên mạng để mọi người được đọc miễn phí và rồi tự những người đọc đã làm một cuộc hội thảo không kém một đồng kinh phí nào mà lại rất thiết thực. Tôi nghĩ những bạn đọc yêu văn chương, đặc biệt là các nhà văn rất nên lưu ý đến những ý kiến của độc giả. Nhiều ý kiến sâu sắc, tinh tế như thể những người trong nghề. Tôi rất thích những ý kiến của độc giả kể cả khen và chê. Nó cũng hay như tác phẩm được mang ra mổ xẻ vậy.
  Gửi bởi: LÊ KỲ - 22/02/2009

CÁI TRUYỆN THÌ HAY NHƯNG CHỮ NHỎ QUÁ ÔNG ĐỨC Ạ. ÔNG CÓ CÔNG TẠO BỮA TIỆC VĂN HÓA NÀY, NHƯNG ÔNG CŨNG NÊN THƯƠNG CÁNH GIÀ CHÚNG TÔI MỘT TÝ, CHO CHỮ TĂNG LÊN MỘT CHÚT ĐỂ CÓ THỂ ĐỌC ĐƯỢC LÂU HƠN. ĐỘI ƠN ÔNG
  Gửi bởi: Xuân Đức - 22/02/2009

Chào bác Lê Kỉ. Hi hi..tui gõ máy phải dùng kính 3,5 diop đấy. Cái giao diện bé quá, kích chữ to lên nó xấu khó coi. Chà. được cái này mất cái khác, cũng khổ bác nhỉ.
  Gửi bởi: NGUYỄN HUY LIÊM - 23/02/2009

Nghe nhiều người mách, nhưng mãi bữa nay tôi mới tìm được vài intenet của bác Trúc Sơn Trang. Tôi đọc và thực sự là rất xúc động. Tôi là một trong những nhân vật của Đảo chìm. Tôi là y tá của Đảo, chỉ qua lớp tập huấn y tá 18 tháng, vì bấy giờ biên chế bác sĩ phải ở những đảo lớn, có đông quân, đảo nhỏ chỉ có y tá, y sĩ thôi. Tôi là Huy Liêm, nhưng anh Khoa chỉ nhớ mỗi tên đệm của tôi. Cái chuyện này, anh Khoa viết rất chính xác, như chuyện của Nguyễn Hữu Tư, chúng tôi gọi là Tư Xồm, Trần Văn Hai thì đúng rồi, Hai đã hy sinh đúng như anh Khoa kể. Còn một nhân vật nữa rất hay là Trần Văn Tròn người Quảng Bình, nhưng anh khoa không biết, anh Khoa có biết Tròn, còn giới thiệu cho Tròn làm quen với một cô tuyên văn, chúng tôi gọi là văn công Hạm đội 171 Nguyễn Thanh Nhạn. Cô Nhạn rất xinh, hát quan họ cực hay, chỉ mỗi tội hôi nách. Tròn có yêu cô gái ấy, họ có thư từ cho nhau, nhưng rồi không thành. Mọi tình tiết trong truyện đều chính xác, chỉ có chi tiết tôi mổ ruột thừa cho Thiêm thì có mô ni phê, thực ra tôi mổ qua sự chỉ dẫn của bác sĩ ở đảo Trường Sa lơn, tôi chưa mổ bao giờ, phải có tư vấn qua điện thoại vô tuyến điện. Nhưng ca mổ thành công. Còn chuyện Nàng Antanamena thì cũng rất đúng, đúng như thế, nhưng không phải lợn mà là chó. Con chó an tanmena rất khôn, biết làm xiếc như anh Khoa tả, nhưng không hiểu vì sao anh Khoa lại đổi thành lợn thì tôi không hiểu. Lợn thì hay hơn chăng? Tôi rất đồng ý với mộ ý kiến của bạn đọc cho rằng, không cần bàn đến con lợn nữa, vì chuyện của lợn thì đã hết rồi, khi Hai chết mà còn mang lợn ra đùa thì rất bất nhẫn, dừng lại như anh Khoa là phải. Thay mặt cho các bạn tôi ở Đảo chìm, xin cảm ơn nhà thơ Trần Đăng Khoa, cảm ơn bạn đọc đã theo dõi câu chuyện của mấy anh em chúng tôi và phát biểu cảm tưởng rất cảm động.
  Gửi bởi: Cúc Hoa - 18/03/2009

Gửi anh Khoa: Em có thằng bé con đang học lớp 2 tối qua nó đi học về phụng phịu là lỗi tại bác Khoa mà cô cho con điểm thấp rồi nó leo lẻo đọc bài thơ Cây dừa của anh:
Cây dừa xanh tỏa nhiều tàu
Dang tay đón gió, gật đầu gọi trăng.
Thân dừa bạc phếch tháng năm
  Quả dừa - đàn lợn con nằm trên cao
  Đêm hè hoa nở sao
  Tàu dừa - chiếc lược chải vào mây xanh
  Ai mang nước ngọt, nước lành
  Ai đeo bao hủ rượu quanh cổ dừa.
  Tiếng dừa làm diệu nắng trưa
  Gọi đàn gió đến cùng dừa múa reo
  Trời trong đầy tiếng rì rào
  Đàn cò đánh nhịp bay vào bay ra.
  Đứng canh trời đất bao la
  Mà dừa đủng đỉnh như là đứng chơi.
Xong nó bảo: Cô hỏi con là hãy tìm trong bài thơ những từ tả thân, lá, ngọn, hoa, quả dừa. Con tìm mãi không thấy ngọn nên con nói đại là ngọn dừa như... cái chổi! Cô nói sai nên cho con 9 điểm, rồi nó phán một câu xanh rờn: Thế mới đau! Mẹ gọi cho bác Khoa nói bác tả thêm ngọn dừa nữa mẹ nhé. Em hỏi nó con thích câu thơ nào nhất thì nó bảo con thích 4 câu từ thân dừa cho đến quả dừa vì đọc thấy hay hay, mà bác Khoa tả cây dừa như là chú bộ đội ấy. Rồi nó khoe: con cũng biết làm thơ: Năm mới con chúc mẹ mạnh khoẻ. Rồng hay chuột cũng chỉ là tuổi. Mỗi người có một tuổi riêng. Giao thừa pháo bông nở trước mặt. Em trêu thơ con cóc thì nó giảy nảy lên và đòi mẹ tìm bằng được bác Khoa để xin ý kiến! Kính nhờ anh xử lý vì thằng oắt con nhớ rất dai anh ạ.

  Gửi bởi: Cuc Hoa - 18/03/2009

ôi trời mắt nọ xỏ mắt kia nên sai 2 lỗi rồi. Đêm hè hoa nở cùng sao và Tiếng dừa làm dịu nắng trưa mới đúng. Thành thật xin lỗi anh!
  Gửi bởi: Lê Xuân Quang - 24/04/2009

Tôi đang ở Las Vegas, tình cờ vào trang Xuân Đức, đọc loạt tác phẩm của TDK. Không ngờ cậu Khoa viết quá hay. Đọc rất cảm động và rất buồn cười. Cám ơn nhà văn Xuân Đức
  Gửi bởi: LÊ ĐẠO - 19/09/2009

Tôi đã đọc một lèo Đảo chìm. Cai chuyện viết hay quá, mà những lời bình luận cúng rất hay. Toàn những anh tài trác việt cả. Cám ơn nhà báo Xuân Đức đã có trang báo điện tử rất bổ ích và lý thú. Từ nay tôi sẽ đọc thường xuyên Trúc Sơn Trang
  Gửi bởi: Xuân Đức - 21/09/2009

Cảm ơn bạn Lê Đạo. Rất mong bạn thương xuyên vào TST để chia sẻ với mọi người. Chúc bạn vui, thành đạt.
  Gửi bởi: trang91 - 25/09/2009

tiểu thuyết này rất hay bác ah. Lời văn rất chân thực, sắc sảo, hóm hỉnh nhưng rất cảm động. Tuy được viết cách đây tầm 20 năm nhưng nó có ý nghĩa thiết thực, lâu dài nhất là thời điểm hiện nay. Cô giáo cháu giới thiệu lâu rồi nhưng bây giờ mới có dịp đọc. Quả là rất tuyệt
  Gửi bởi: LÊ HOÀI VĂN - 01/10/2009

Vẫn biết ông Khoa có viết văn xuôi, nhưng tôi không ngờ ông ấy viết hay, hài hước và cảm động đến vậy. Đọc và bị váng vất, không quên được. Thương những ngwời lính quá. Càng kinh hoàng khi biết đó lại là những chuyện có thật. Tất nhiên tôi vẫn muốn có cuốn sách này trong tay để đọc. Ông Đức có biết cuốn sách này bán ở đâu không? Tôi vào mạng thì thấy cuốn sách được in ở mấy nhà xuất bản, nhưng ra hiệu sách thì không còn. Trong trang O2tv (o2tv.vn) ông Khoa có cuộc trò chuyện về sức mạnh và cái yếu của đàn ông cũng rất hay. Tôi nghĩ ông Xuân Đức cũng nên kéo hai videoclip đó về Trúc Sơn Trang cho trang báo thêm vui.
  Gửi bởi: Xuân Đức - 02/10/2009

Cảm ơn Lê Hoài Văn đã ghé chơi. Mình sẽ tìm bài mới của Khoa để phục vụ mọi người. Chúc vui và khoẻ.
  Gửi bởi: Nico - 03/02/2010

TRẦN ĐĂNG KHOA VỚI TRƯỜNG SA THIÊNG LIÊNG
Nhà thơ Bùi Hoàng Tám
 

Nếu cái góc sân và khoảng trời quê hương đã làm nên một thần đồng thơ Trần Đăng Khoa thì Trường Sa đã làm nên một Nhà thơ quân đội Trần Đăng Khoa. Suốt những năm tháng lăn lộn cùng những người lính biển trên hầu hết các đảo của quần đảo Trường Sa, Trần Đăng Khoa đã viết hàng trăm bài thơ và đặc biệt là tiểu thuyết mini Đảo chìm. Cuốn sách chưa đầy 80 trang và là tiểu thuyết duy nhất cho đến nay viết về Mảnh đất địa đầu Tổ quốc này tập hợp 15 câu chuyện người thật, việc thật mà theo lời tác giả: “Tôi đã định biến những con người mà tôi yêu mến thành nhân vật trong truyện ngắn hay tiểu thuyết nhưng lại thấy không nên vì bản thân họ đã rất đẹp rồi, rất thật rồi, hà cớ chi ta phải hư cấu thêm cho cồng kềnh, rắc rối. Tốt nhất là cứ để vậy. Cuộc sống vốn chân thật và giản dị…”. Nhân dịp đầu xuân, chúng tôi đã có cuộc trò chuyện với Nhà thơ Trần Đăng Khoa về đề tài này.
Trước hết, xin chúc mừng Nhà thơ Trần Đăng Khoa về việc anh đã trở thành Giám đốc, lãnh đạo một trong những kênh truyền thông lớn của Đài Tiếng nói Việt Nam, là Kênh hình  VOV…?
Cũng trước hết, tôi xin nhà báo bỏ bớt sự “trịnh trọng” bởi tôi chưa và không bao giờ lại nghĩ mình là sếp vì tôi mãi mãi vẫn là tay chăn trâu của cánh đồng làng Điền Trì và người lính của quần đảo Trường Sa. Đó là nơi tôi và các đồng đội tôi đã sống những tháng năm đẹp đẽ nhất của cuộc đời mình.
Cám ơn anh vì đó cũng là vấn đề tôi rất quan tâm. Duyên cớ nào đưa anh đến với biển đảo Trường Sa?
Năm 1975, khi chúng tôi đang học những ngày cuối cùng của lớp 10, tức là lớp 12 bây giờ thì có lệnh tổng động viên, tăng cường quân cho Chiến dịch Hồ Chí Minh. Lớp tôi có 53 người thì nhập ngũ đến 47 người. Các lớp khác cũng vậy. Sau nhà trường phải dồn hết quân số còn lại của các lớp vẫn không đủ cho một lớp để học tiếp phần còn lại. Tôi là lính Tiểu đoàn 3, Đại đội 1. Trung đoàn 2.  Huấn luyện vừa xong thì đất nước thống nhất, tôi được điều về Bộ Tư lệnh Hải quân. Vì vậy mà tôi có điều kiện gần gũi, gắn bó với Trường Sa.
Là thi sĩ, tâm trạng của anh lần đầu ra đảo thế nào…?
Ý ông muốn hỏi cảm xúc mơ màng của nhà thơ trước sự hùng vĩ của biển khơi ư? Không có đâu ông ơi. Đó là một vùng sóng gió  dữ dằn và khốc liệt. Ngày đó, Trường Sa còn như một hoang đảo tràn ngập phân chim. Không có hệ thống thông tin liên lạc, không có sóng của Đài tiếng nói Việt Nam và không có cả ngày tháng dù trung đội nào cũng có một cuốn lịch. Cuộc sống như bị bứt ra khỏi xã hội loài người. Đất nước thống nhất nhưng chưa liền một dải và máu vẫn đổ trên quần đảo bão tố ấy.
Nhưng đọc Đảo chìm của anh, độc giả đều thấy các nhân vật của anh hết sức trẻ trung, tếu táo và hồn hậu…?
Cuộc sống ở đó đúng là như thế. Đám lính đảo chúng tôi là những người nông dân như cái cây trồng trên cánh đồng của làng mình, giờ được bứng ra trồng giữ sóng gió. Sức sống mãnh liệt của người nông dân cộng với sự hồn nhiên bản tính đã tạo nên một cuộc sống hồn hậu và chân thực. Biển dữ dội, biển phóng khoáng và biển không che đậy. Con người trước biển như bị lột trần, không có gì nương tựa nên cách tốt nhất để tồn tại là hồn nhiên đón nhận mọi thử thách. Trường Sa - đó là nơi dữ dội nhất, phóng khoáng nhất, thiêng liêng nhất và cũng mong manh nhất. Nếu có máu đổ thì sẽ đổ ở đây trước tiên.
Từng đặt chân lên hầu hết các đảo lớn nhỏ của quần đảo Trường Sa, anh ám ảnh nhất với nơi nào?
Ám ảnh ư? Đó là “đảo chìm” tức là những đảo còn chưa nhô lên khỏi mặt nước. Nó như hình bóng của một xã hội tốt đẹp nhưng ở thì tương lai, cái gì cũng có. Còn hiện tại thì không có gì cả. Người lính canh giữ đảo chìm là canh giữ cái giọt máu thiêng của Tổ quốc còn chìm trong nước. Nó mới đang còn là một cái bào thai. Nó đang vật lộn, quẫy đạp trong bầu nước âm u của biển cả để ra đời. Và không biết đến bao giờ nó mới ra đời, mới nhô lên khỏi mặt biển để trở thành một xứ sở bình dị….
Còn điều đáng sợ nhất?
Đó là cảm giác bị bỏ rơi. Người lính không sợ gian khổ. Không sợ sóng gió. Có sóng gió thì còn có việc là chống chọi với sóng gió. Lính biển có kinh nghiệm lại sợ nhất khi biển lặng. Kinh lắm ông ạ. Rợn ngợp trong cảm giác bị lãng quên.
Có phải vì thế nên anh viết: “Chẳng ai biết chúng ta đang ở đây”?
Tôi còn viết: “Những mùa đi thăm thẳm – Trong mông lung chiều tà – Có bao chàng trai trẻ - Cứ lặng thinh mà già”… Những đồng đội tôi ở đảo, họ thật đáng kính trọng bởi sự tồn tại của họ đồng nghĩa với sự tồn tại của biên cương Tổ quốc.
Nhưng Trường Sa bây giờ đã khác rất nhiều so với thời anh ở đó…?
Đấy là điều tuyệt vời. Tôi biết và cảm nhận được điều đó chứ. Trường Sa bây giờ đã là huyện đảo, mọi điều kiện đều tốt hơn thời chúng tôi ở đó rất nhiều. Đặc biệt là từ khi có bóng phụ nữ trên đảo, thế giới nơi đây trở nên cân bằng bởi từ hàng ngàn đời nay, nơi này chưa bao giờ có sự hiện diện của phụ nữ. Một tà áo đàn bà là điểm tựa để báo hiệu một đời sống yên bình của một vùng quê Việt Nam, khiến đảo không còn hoang dã.
Nhưng nơi đây hết sức dữ dằn…?
Đúng là nơi đây hết sức dữ dằn cả thiên tai, địch họa. Vì vậy, tôi càng kính trọng sự hiện diện của những người phụ nữ và cả những em bé. Họ  vừa là người canh giữ vừa là chủ nhân đích thực của Trường Sa. Đấy là những người lính mặc thường phục
Trở lại với các sáng tác về Trường Sa. Anh đã có hàng trăm bài thơ về Trường Sa, trong đó có nhiều bài rất hay như Đợi mưa trên đảo Sinh Tồn, Cây bão táp đảo Nam Yết, Đồng đội tôi trên đảo Thuyền chài, Viết từ hải đảo, Lính đảo hát tình ca, Thơ tình người lính biển, Cây sâm đất Trường Sa. Chim sơn ca trên đảo Sơn Ca, Cô Tổng đài Hải đảo, Hát về một hòn đảo … Đặc biệt là cuốn tiểu thuyết mini Đảo chìm đã được tái bản tới 25 lần với nhiều vạn bản. Thế nhưng hình như tác phẩm này lại không được giới chuyên môn đánh giá cao…?
Câu hỏi này ông nên hỏi những người mà ông gọi là “giới chuyên môn” chứ sao lại hỏi tôi vì tôi làm sao trả lời thay họ được? Vả lại, tôi viết là để trước hết cho tôi, cho đồng đội của tôi và cho độc giả chứ chưa và không bao giờ có ý định viết cho “giới chuyên môn”. Do đó, họ đánh giá thế nào là quyền của họ và với tôi, quả thật những đánh giá kiểu này cũng rất ít quan trọng. Vả lại, tôi còn có niềm vui khác to lớn hơn rất nhiều.
Niềm vui to lớn đó là gì vậy, thưa anh?
Nhiều chứ. Đơn cử là gần đây, một bạn đọc đã đánh máy Đảo chìm, đưa lên trang Web của nhà văn Xuân Đức. (xuanduc.vn) Hàng trăm comment gửi về chia sẻ, động viên và… mắng mỏ. Nhưng vui nhất là những dòng thư mà đồng đội cũ của tôi, những người cùng với tôi lăn lộn nơi biên cương Tổ quốc gửi cho tôi. Họ chính là nhân vật của cuốn sách. Có người còn mắng sao tôi quên người này, người nọ… Tôi coi đó là mệnh lệnh đồng đội tôi giao nên trong năm tới, tôi sẽ cố gắng thu xếp thời gian để bổ sung rồi sau đó, tập hợp thành một tập Thơ và văn xuôi viết về Trường Sa.   
Xin cám ơn anh về cuộc trò chuyện đầu xuân này!
BOX: Hình như đối với nhà văn, nhà thơ, đến một ‘độ” nào đó, ngưởi ta tạo lập cho mình một lãnh địa, một “vương quốc” để họ cát cứ. Ở Việt Nam, nếu Tây Nguyên huyền bí là “vương quốc” của Nguyên Ngọc, Trường Sơn uy nghiêm là lãnh địa của Phạm Tiến Duật thì Trường Sa hùng vĩ thuộc về Trần Đăng Khoa. Cho đến hôm nay, anh là nhà thơ duy nhất, hay nói cách khác, Trần Đăng Khoa là Hội viên Hội nhà văn Việt Nam duy nhất trực tiếp tham gia bảo vệ và viết rất ấn tượng về mảnh đất nơi đầu sóng ngọn gió, miền cực Đông thiêng liêng của Tổ quốc Việt Nam này
Nhà thơ Bùi Hoàng Tám
Con vừa đọc được bài này bên web trannhuong.com. Vì cuộc phỏng vấn liên quan đến đảo chìm-một tác phẩm được bạn đọc khắp nơi hoan nghênh nhiệt liệt nên con cop về cho mọi người đọc để hiểu thêm quan điểm của Thầy con-tác giả Đảo chìm.
Hi,hi...Hổng phải con thấy người sang là vơ quàng làm họ nhưng thực lòng những người mà con ngưỡng mộ, yêu mến như Thầy con thì rất không nhiều. Hi vọng Thầy Khoa sẽ không phiền lòng khi có thêm một thằng học trò hệ đào tạo...từ xa nhăng nhít như con.
Wink

  Gửi bởi: phan thanh - 07/02/2010

Bác Đức kính mến! Cháu đã đọc Người không mang họ của bác khi đang là sinh viên.  Nay đọc vào TST của bác lại được đọc bao truyện hay. Cháu đọc Đảo chìm liền một mạch, cảm ơn nhà thơ TĐK đã cho các thế hệ bạn đọc hiểu hơn về cuộc sống, tâm hồn, tình cảm và nghị lực của những người lính đảo. Tác phẩm còn hấp dẫn bới cách viết hóm hỉnh, độc đáo rất riêng của tác giả. Cháu sẽ giới thiệu Đảo chìm với học sinh của cháu để chúng thấy rằng chúng đã bỏ lỡ thời gian và công sức như thế nào khi đi  thuê mấy cuốn truyện tranh nhảm nhí vớ vẩn được in ra để câu khách. Cháu cũng hơi tiếc khi đi tìm ở hiệu sách (Thanh Ba- Phú Thọ) lại không có cuốn này.
Cháu mong sẽ được bác giới thiệu nhiều tác phẩm hay.

  Gửi bởi: việt bêla - 28/03/2010

Nghe nói Đảo chìm trăm năm nữa
Sẻ thành đảo nổi của Trường sa
Nhưng mà quả Đất nóng ra
Băng tan Biển ngập Đảo kia vẫn chìm
Khéo khôn là bác Khoa Trần
(Đảo chìm )sẽ mãi ngàn năm Đảo chìm...

  Gửi bởi: Quỳnh A nh Thư - 29/03/2010

Nổi, chìm bởi ý thức ta
Đảo Chìm mãi mãi trong lòng chúng ta.
Dù cho băng, đá tan ra
Nước thêm trăm mét vẫn là Trường Sa
 giữa trời biển nước bao la
 Trường Sa anh dũng mãi là Trường Sa.
Mênh mông trời biển bao la
 Ai yêu đất nước hướng về Trường Sa

  Gửi bởi: VIỆT BÊLA - 30/03/2010

TRƯỜNG SA LÀ CỦA NƯỚC NHÀ
(ĐẢO CHÌM) LÀ CỦA BÁC KHOA MỘT MÌNH
QUỲNH ANH LIẾC MẮT VÔ TÌNH
CHO NÊN HIỂU LỘN Ý MÌNH ĐÓ THÔI
TÔI ĐÂY CHỈ KHÁO CHUYỆN ĐỜI
TÀI HÈN SỨC MỌN ..ĐẤT-TRỜI. DÁM ĐÂU!


  Gửi bởi: solo - 30/03/2010

ồh.như vậy Tiểu Thuyết Nổi tiếng đóng lại với mười chương.Cám ơn tất cả.goodbye
  Gửi bởi: Ut ngo - 13/04/2010

Cảm ơn anh Xuân Đức , cảm ơn Thu Hà . Nhờ có hai người mà chúng tôi những người yêu TĐK , yêu đảo chìm mới có dịp gặp nhau nơi đây . Đã thế lại còn được bổ xung thêm bao nhiêu là chuyện , thơ và nhiều tình tiết hấp dẫn .
  Gửi bởi: Y LINH - 02/06/2010

Cháu chỉ biết Trường Sa qua Đài, báo, cũng có nghe nói đến chú Trần Đăng Khoa qua các bài giảng của cô giáo. Lần đầu đọc văn xuôi của Trần Đăng Khoa, thấy hay, buồn cười và cảm động. Cháu đã thực sự khóc khi đọc "Đảo chìm". Một cuốn sách hay và độc đáo như thế này, tại sao không in ra, không đưa vào chương trình học phổ thông. Chú Khoa đặc biệt miêu tả biển rất giỏi, cám ơn bác Xuân Đức đã đưa lên mạng cái truyện hay như thế này để một sinh viên nghèo như cháu được đọc miễn phí. Cảm ơn bác Đức, chú Khoa. Mong chú Khoa có nhiều trang văn xuôi hay như thế nữa để mọi người được thưởng thức, ngưỡng mộ

Nhận xét

Chia sẻ cho bạn bè

Bài viết liên quan