Tác giả: Xuân Đức
CẢNH
III
(Trong khoảng tối nghe tiếng
máy bay L19 rè rè. Tiếng loa chiêu hồi
ong ỏng phát ra lời của một co gái)
- Hỡi đồng bào các dân tộc PaCô,
Vân Kiều trên đất Khe Sanh. Chúng tôi biết đồng bào đang vô cùng cực khổ, cơm
không còn để ăn, nước khống còn để uống, nhà cửa không còn để ở, đến rau rừng củ
rừng cũng không có để ăn. Dân bản đang chết dần chết mòn trong rừng thiêng nước
độc. Đó là vì bọn Cộng sản Bắc Việt đang rắp tâm tấn công vào lãnh thổ của Việt
Nam cộng hoà...
Hỡi đồng bào! Tết Nguyên đán đã
sắp đến rồi. Đồng bào không thể lang thang mãi để bỏ xác trong rừng sâu. Hãy trở
về những nơi có căn cứ quân sự Mỹ. Lực lượng liên quân Việt Mỹ đủ sức mạnh để
bảo vệ cho đồng bào. Muốn ăn cơm có cơm, muốn uống sữa có sữa.. cuộc sống no đủ
sung sướng đang chờ đón đồng bào!
(Một đoạn nhạc rú lên réo
rắt.)
(Đèn sáng dần. Ở một vị trí khác trong rừng sâu, từng đụn
khói vàng màu da cam phủ tràn cây rừng... Xã đội trưởng Miêng chạy ra, lo lắng.
Su chạy theo sau)
Miêng:
Rai ơi! Rai à... Rai... Rai ở đâu, Rai
ơi...
Su: Miêng! Miêng... Máy bay đang ném bom,
nguy hiểm quá! Tapa... Mi không được liều mạng
Miêng:
Rai đâu? Không thấy Rai đâu cả Su
ơi!
Su: Đừng lo Tapa. Anh Rai khoẻ mạnh, lanh
lợi nhất bản, bom đạn thằng Mỹ không làm gì được đâu. Còn mày, mày là xã đội
trưởng, mày có trách nhiệm với tất cả bọn du kích của xã... Mày mà liệu mạng, lỡ
có chuyện chi thì bọn tao biết làm sao đây...
Miêng:
(Ôm lấy Su) Su ơi, mày là đứa bạn thân
nhất của tao nên mày biết bụng tao mà...
Su: Tao biết. Tao biết mày thương Rai hơn
cả rừng thương con suối
Miêng:
Rai là một thanh niên tốt, rất thương
người và chịu khó. Nhưng Rai cũng là người quá xốc nổi, cái bụng không bao giờ
chịu nghĩ kỹ trước khi làm việc gì. Rai
đi đâu từ sáng đến giờ không về. máy bay Mỹ sáng nay lại quần phá nát cả rừng...
Không biết Rai có làm sao không.
Su: Không sao! Dứt khoát là không sao! Rai
là con của thần núi mà... Bọn Mỹ chỉ bật được gốc cây, đốt được lá rừng chứ đánh
sập làm sao được núi...
(Bất ngờ Hồ Rai xuất hiện, quần
áo tã tơi, 2 tay ôm một nắm củ rừng)
Su: Đó... Thấy chưa? Tao đã bảo mà.
Miêng:
(Sững ra) Rai!...
Rai: (Vừa thở vừa cười) Miêng... cả Su nữa.
Hai cô lên đây làm chi?
Su: Còn hỏi nữa à. Cái tội của anh Rai to
hơn cái vực kia kìa
Rai: Tội của tôi? Tôi làm chi nên tội
Su: Còn ngoan cố à.Cả một buổi sáng ni,
con Miêng gào thét tìm anh đến khản đặc cả cổ họng... người đâu có thứ người vô
tâm.
Rai : Thiệt à! Miêng... Miêng tìm tôi à?
Miêng:
(Tức giận) Ai thèm tìm, Đi giỏi thì cho
đi luôn... Qua bên Lào mà ở...
Rai: Haha... Xã đội trưởng đuổi thì mình đi
đây... (Quay lại vờ đi)
Su: Đứng lại. Bước thêm một bước là tao
bắn liền.
Rai: Ai chà, dũng sĩ diệt Mỹ có khác. Thôi
được, tôi xin báo cáo. Đây... (đặt mấy
củ rừng xuống)
Su: Cái gì thế này?
Rai: Củ rừng...
Su: Nhưng nó là củ gì? Sao lại đen thui thế
này?
Rai: Mình không biết
Su: Không biết thì lấy làm gì?
Rai: Ăn...
Su: Ăn? Không biết củ gì mà ăn, lỡ chết
người thì sao?
Rai: Không chết. Su cứ ăn thử coi.
Su: Thiệt hả! (Ngoạm ngay một miếng, bỗng thóp bụng ọe ra.
Rai cười sặc sụa) Anh Rai... thư độc chết mình hả. Ôi, đắng khủng khiếp
Miêng:
Ẩu quá... không biết củ gì mà ăn đại
vào có khi chết thật đó.
Rai: Không chết đâu. Mình đã ăn rồi. ( ngừng lặng, giọng trầm xuống) Cả bản
mình bữa nay còn có chi mà ăn. Trẻ con, người già đã đói lả rồi. Mình không thể
ngồi nhìn bà con chịu đói như thế được. Suốt sáng nay mình vào rừng, vào sâu bên
kia biên giới... Nhưng tất cả những củ Mài, củ Dong đều đã bị đào hết sạch
rồi... Đi mãi, đi mãi, hai chân đã sắp rời khỏi người mình mới tìm thấy loại củ này... Lúc đầu mình
cũng sợ, nhưng nghĩ đến bà con dân bản nên mình liều, ăn thử. Lúc đầu đắng quá,
mình cũng nôn ra. Nhưng ngồi một lúc, thấy cái bụng không đau, lại thấy trong cổ
có vị ngọt. Rứa là mình ăn thếm miếng nữa... Chừ thì mình quả quyết củ này ăn
được. Nó sẽ cứu được dân bản mình.
Miêng:
Ôi... Rai..Rai giỏi quá.
Su : Thế mà vừa nãy lại bảo, Rai xốc nổi,
chẳng chịu nghĩ kĩ khi làm việc gì..
Miêng
: Cái con này..
( Từ trên cao, tiếng máy bay L19 lại vòng
đến rè rè, và lời chiêu hồi của cô gái lại ong ỏng vang lên)
" Hỡi đồng bào! Tết Nguyên
đán đã sắp đến rồi. Đồng bào không thể lang thang mãi để bỏ xác trong rừng sâu.
Hãy trở về những nơi có căn cứ quân sự Mỹ. Lực lượng liên quân Việt Mỹ đủ sức
mạnh để bảo vệ cho đồng bào. Muốn ăn cơm có cơm, muốn uống sữa có sữa.. cuộc
sống no đủ sung sướng đang chờ đón đồng bào!.."
( Su điên tiết dương súng lên. Miêng dằng
lại )
Miêng: Kệ nó mày, nó có mồm nó nói, cái tai mình
đừng nghe là được.
Su: Vậy thì để mình về bảo bọn con trai
cùng lên đây đi đào củ đắng. (Quay
đi)
Miêng:
Su, Cẩn thận nghe chưa?
Su: Báo cáo xã đội trưởng, rõ! (Đi nhanh)
(Chỉ còn lại 2 người, Miêng nhìn
Rai)
Miêng:
Sao lại liều thế... nếu lỡ cái củ
đắng này có độc thì sao?
Rai: Thì mình sẽ chết
Miêng:
(Bịt lấy miệng) Miêng cấm anh Rai không
được nói cái chữ ấy.
Rai: Xã đội trưởng gì mà lại thế. Đã đi đánh
Mỹ thì còn sợ chi cái tiếng chết.
Miêng:
Không... Thà Miêng chết, Miêng sẵn sàng
chết... chứ Rai thì không..
Rai: Sao lại ích kỷ thế?
Miêng:
Không cần biết. Chỉ cần Rai chấp hành
như vậy là được.
Rai: Giàng ơi! Đó là mệnh lệnh à?
Miêng:
Đúng. Mệnh lệnh của Miêng đó.
(Hai người nhìn nhau trìu
mến)
Rai: À, còn đây nữa. (Lộn túi lấy ra một nắm quả nhỏ, chín
mọng)
Miêng:
Lại còn thứ gì nữa?
Rai: Quả Ngấy... mình tìm được ở bên kia suối
Ta Lung . Lạ quá, cả một vùng cây cháy trụi, thế mà vẫn còn một cây Ngấy chưa
chết, quả chín rất mọng. Miêng cầm về cho chim Tapa... chắc nó cũng đói lắm.
Miêng:
Khổ thân chim Tapar, người đói đã đành,
đến con chim trong lồng cũng chẳng còn cái ăn... Nhiều lúc mình nhìn nó mà ứa cả
nước mắt.
Rai: ( nhìn Miêng đắm đuối) Miêng này... Anh
định nói với Miêng câu này... nhưng... ngại quá!
Miêng:
Với Miêng mà anh còn ngại cái
chi.
Rai: Anh biết là em rất yêu con Tapa. Nhưng...
nếu cứ để mãi trong nhà... e nó chết mất.
Miêng:
Anh định thả nó vào rừng?
Rai: (Lúng túng) Thì... thì... anh cũng mới nghĩ bụng vậy thôi. Nếu em không ưng thì
cứ nuôi...
Miêng:
Không. Chính cái bụng Miêng cũng nghĩ
vậy, nhưng lại ngại bụng anh Rai. Con Tapa là quà tặng của anh Rai mà... Mình
không giữ được nó là mình có tội...
Rai: Trời đất ơi, Miêng nghĩ gì mà to tát
vậy. Dù sao nó cũng chỉ là một con chim thôi mà.
Miêng:
Nhưng mình quý nó, quý nó hơn bất kỳ
thứ gì. Không phải chỉ vì Tapa là thứ chim mà người Vân Kiều chúng mình quý
nhất, mà còn vì nó là thứ của Rai cho...
Rai: (Cảm động ôm lấy vai Miêng) Miêng
ơi...
Miêng:
Nhưng nhìn nó bị đói, bụng mình không
sao chịu được. Hơn nữa, sắp vào chiến dịch lớn rồi, du kích bọn mình sẽ phải
xung trận hết. Biết lấy ai tìm cái ăn cho nó...
Rai: Miêng nói phải. Thôi, chiều nay về cho
nó nắm quả Ngấy này rồi thả nó ra...
Miêng:
Nhưng... rừng bữa nay đã bị trụi hết
cây trái rồi, liệu nó có sống nổi không?
Rai: Đưa nó qua Sê Pôn, thả về phía bên
kia... (Thở dài) Lỡ như nó có chết
thì cũng được chết với đàn giữa rừng, giữa núi... Để nó chết đói trong nhà mình,
mình không cam tâm...
(Họ ôm chặt lấy nhau, lòng cuộn
lên nỗi thông cảm, xót xa. Su bước ra nhìn thấy họ, ngồi thụp xuống một phiến
đá, một lúc bắt chước tiếng chim gáy Tapa)
Su: Cu rúc... ru... Curúc ru...
(Miêng và Rai giật mình quay
lại)
Miêng:
Tapar!
Rai: Con Tapar sao lại ra đây?
Su: (Đứng lên) Cu rúc ru...
Miêng:
Con khỉ... Mi thật đáng chết!
Su: (Cười ngoẻo cổ) Mình biết. Chỉ có tiếng
Tapar mới lôi được đôi uyên ương ra khỏi giấc mộng tình...
Rai: Đừng ba hoa nữa chích chòe. Đã gặp được
lũ con trai chưa?
Su: Gặp rồi. Mình bảo đi ngay, nếu không
đào thì củ đắng rồi cũng hết.
Miêng:
Chúng nó đâu cả rồi?
Su: Đang chờ dưới suối Ta Lung
Rai: Sao Su không đưa lên đây rồi cùng
đi?
Su: Không đưa lên đây. Vì mình biết... ở chỗ
này... con chim Tapar đang... Cu rúc ru...
Miêng:
Cái con chích chòe này... Tao sẽ cho
mày biết tay!
Su: (Chạy vòng ra đằng sau Rai, ôm lấy lưng
Rai) Cứu! Cứu mình với!... Rai...
Rai: Thôi, đừng đùa nữa. Ta cùng đi đào củ
đắng nào!
(cả bọnkéo nhau đi về phía suối Ta Lung
Sân khấu vắng. Một lúc. Hoàng Khiêm và Phước từ bên kia suối Sê Pôn lội
sang)
H.Khiêm:
(Mở bản đồ) Đây đúng là sông Sê
Pôn!
Phước:
Tức là chúng ta đã qua đất Việt Nam
rồi sao?
Khiêm:
Đúng thế! Đây là vùng biên của địa bàn
Khe Sanh - Hướng Hóa. Theo bản đồ, từ đây xuống tới cứ điểm Làng Vây hơn 10 km
theo đường chim bay. Còn cô Miêng thì nói là đi bộ hơn một ngày..
Phước:
Anh Khiêm này, em không hiểu vì sao cấp
trên không cho đại đội xe tăng của ta cứ chọc thẳng đường số 9 đánh xuống cho
nhanh, lại bắt phải dò đường, đưa xe tăng vượt sông, vượt núi vòng xuống phía
nam cực khổ thế này. Xe tăng ta mà xuất kích thì bọn Mỹ chỉ có khóc thét, việc
quái gì mà cứ phải lén lút như đánh du kích thế ...
Khiêm:
Cứ chủ quan, bốc đồng như cậu thì có
ngày nướng hết quân đấy... (Ngồi xuống
đá, bóc lương khô, vừa ăn vừa nói) Sau khi xe tăng ta san bằng cứ điểm Tà
Mây của cụm cứ điểm Huội San bên đất bạn Lào, bọn Mỹ đã biết chắc là xe tăng
Miền Bắc đã xuất kích vào chiến trường và nhất định sẽ đánh về Khe Sanh. Chắc
chắn chúng đã báo động đỏ. Vì vậy, trận đánh này cấp trên chỉ để một đại đội
hành quân dọc theo đường 9, còn đại đội của chúng ta phải bí mật vượt Sê Pôn
vòng xuống phía nam Làng Vây đánh lên. Đây sẽ là mũi vu hồi có tính quyết
định...
Phước:
Nhưng mà sông suối, đồi núi chập chùng
thế này, làm sao xe tăng có thể bí mật tiếp cận được?
Khiêm:
Bởi thế, nhiệm vụ trinh sát của 2
trưởng xe chúng ta là cực kỳ quan trọng... Đại đội trưởng đã dặn đi dặn lại anh
em mình là phải bám cho được dân. Không có dân thì không có cách gì tiếp cận
Làng Vây được.
Phước:
Nói lý thuyết thì như vậy... Nhưng
thực tế... đã chắc gì?
Khiêm:
Thực tế thì sao?
(Bất ngờ có tiếng người nói to
từ dưới suối lên. Khiêm và Phước nấp vào chỗ kín quan sát.Pả Mậu đắt tay Pỉ
Thiềng, mệt nhọc leo đá lên, trên vai Pỉ Thiềng địu 1 đứa trẻ mới 2 tuổi đang
đói lả)
Pả Mậu:
Mau lên... đường này này...
Pỉ Thiềng:
Có lạc đường không đó?
Pả Mậu:
Lạc răng được. Sông Sê Pôn kia kìa... Qua được đó là đất Lào rồi...
Pỉ Thiềng:
Nhưng tui mệt quá rồi. Cái chân không muốn bước nữa...
Pả Mậu:
Cái chân không muốn bước hay cái đầu
không muốn?
Pỉ Thiềng:
Cái chân không muốn... Mà cái đầu cũng không muốn... Pả Mậu ơi, mình bỏ bản mà
chạy là có tội... là không còn xứng đáng là con cháu mang họ Bác Hồ nữa. Tui đau
cái bụng lắm.
Pả Mậu:
Rứa Pỉ tưởng cái bụng tau không đau à? Nhưng ở lại lấy cái chi nuốt vào bụng...
Nương rẫy, cây trái, củ mài, củ dong đều sạch trụi cả rồi... Chết rồi thì có
trung thành được với cách mạng không?...
Pỉ Thiềng:
Bác Hồ ơi... Răng Bác không cho bộ đội vô đây vật chết cái thằng Mỹ, để nó hại
lũ con cháu đến mức này... (Quay lại gỡ
đứa trẻ)Tội nghiệp cho cháu tui, Pả thì chết bom, Pỉ thì chết đói... Nó cũng thoi thóp thế này
liệu có theo nội được không?
Pả Mậu: Pỉ
không có sữa, không cơm cháo, địu thêm đứa cháu thì nuôi nó bằng cách chi?
Pỉ Thiềng:
Tui còn thở thì cháu tui còn thở... Chẳng lẽ bảo tui quẳng cháu mà chạy một mình
à?
Pả Mậu:
Sớm muộn chi thì Giàng cũng vật chết cái bọn giặc Mỹ ấy. Chừ mình tạm chạy qua
bên kia, chỉ chạy tạm thôi Pỉ à, dăm bữa nửa thắng, khi nào có mưa, bớt được cái
chất độc, trồng được cây bắp, mình lại về mà. Mình có bỏ cái rẫy đi mãi
đâu...
(Hoàng Khiêm và Phước đứng lên
cùng cất tiếng chào)
Khiêm:
Chúng con chào bố mẹ!
Pỉ Thiềng:
(Hét lên sợ hãi) Giàng ơi, biệt
kích! (Pả Mậu vung rựa lên)
Khiêm:
Không phải biệt kích đâu. Chúng con là
bộ đội, bộ đội Cụ Hồ!
Pả
Mậu: Bộ đội Bác Hồ?
Phước:
Dạ, bộ đội Bác Hồ thật mà. Bố trông
đây này... áo quần này... mũ này... À, bi đông này, túi lương khô này...
Pả Mậu:
Lương khô?
Phước:
Đúng rồi... Lương khô thật mà... Bọn
biệt kích không thể có được lương khô này đâu (Chìa ra)
(Pả Mậu chụp lấy)
Pả Mậu:
Cho tao với... (Ngoạm ngay một miếng)
Pỉ Thiềng:
(Hét lên) Không được ăn... Pả quên
lời thề rồi sao?
Khiêm:
Bố cứ ăn, không có độc đâu. (Bẻ một mẩu) Con ăn đây này...
Pả
Mậu: Không... không phải sợ độc... Mà dân bản đã
thề...
Khiêm:
Ừ, con cũng đã nghe cô Miêng nói vậy.
Bố ơi, dân bản đã thề thế nào hả bố?
Pả Mậu:
Không được đụng đến đồ ăn của bộ
đội...
Phước:
Vì sao thế ạ? Bộ đội là con của nhân
dân mà...
Pỉ Thiềng:
Phải... Vì vậy dân bản phải dành cái ăn cho bộ đội để nó đủ sức đánh bọn Mỹ. Có
đuổi được bọn Mỹ đi thì dân mình mới thoát khỏi cảnh cơ cực này... (Hoàng Khiêm và Phước nhìn nhau) Pả hãy trả cái ăn lại cho bộ đội
đi. Nếu không con Miêng nó sẽ giận suốt đời đấy...
Pả Mậu:
Ừ... tau trả (Đưa lại nhưng cứ ngập ngừng, không
nỡ...)
Khiêm : Không sao đâu bố ơi..Rồi bọn con sẽ nói với
cô Miêng, cô ấy sẽ không giận đâu.
Pả Mậu:
Con Miêng..mày cũng biết nó à?
Khiêm:
Dạ... con biết. Con có nhiệm vụ sắp gặp
và phối hợp với đồng chí xã đội trưởng...
Pả Mậu:
Gặp con Tapar hả, nó đi rồi.
Phước : Sao lại Tapar ạ? Chẳng phải xã đội trưởng ở
đây tên là Miêng?
Pả Mậu:
Miêng cũng là Tapar, Tapar cũng là Miêng. Nhưng đi hết rồi. Còn ai đâu mà
gặp.
Khiêm :
Bố nói sao? Họ đi đâu ạ?
Pả Mậu:
Qua Lào. Con Miêng, thằng Rai, cả bọn du
kích nữa, chạy hết rồi.
Khiêm:
Sao lại thế ạ?
Pả Mậu:
Không còn cái chi ăn, không sống được nữa. Cả bản phải chạy thôi... Vợ chồng tao
cũng phải đi thôi...
(Bất ngờ Miêng, Rai, Su và cả tốp
du kích cùng xuất hiện)
Miêng:
Ai bảo Pả là cả bản phải chạy?
Pả Mậu:
Ôi... Con Miêng... thằng Rai... cả con
Su nữa.
Pỉ Thiềng:
Hóa ra tất cả du kích vẫn còn đây, rứa mà Pả nói với tau là...
Su: Pả Mậu nói tất cả du kích chạy qua bên
kia hết rồi phải không? Pả có biết nói vậy là nối giáo cho giặc Mỹ không?
Pả Mậu:
Tao mà lại nối giáo cho giặc à? Nhưng cả bản đã không còn cái chi ăn, ở lại sống
làm sao?
Rai: Đây... củ để ăn đây. (Ngả gùi đổ ra một đống củ)
Pỉ Thiềng:
(Chụp lấy 1 củ) Củ chi đây? Ăn được
không?
Rai: Ăn được. Nhưng mỗi lần chỉ cắn một
miếng thôi.
Pỉ Thiềng:
Vì răng chỉ được cắn một miếng?
Rai: Pỉ cứ ăn rồi biết.
(Pỉ Thiềng cắn ngay một
miếng, ọe ngay ra)
Pỉ Thiềng:
Giàng ơi... Đắng quá... nuốt sao
nổi.
Miêng:
Pỉ ơi... củ này đắng nhưng không
độc. Bọn con đã ăn rồi... Vì bọn Mỹ, bà con mình phải chịu cực, nuốt tạm củ
đắng. Khi nào bộ đội, du kích tiêu diệt được cụm cứ điểm Làng Vây, đuổi chúng
khỏi Khe Sanh - Hướng Hóa, rồi quét sạch chúng nó khỏi đất nước mình, thì ta sẽ
được độc lập, sẽ có cơm no áo ấm, con cháu Vân Kiều sẽ được học hành. Bác Hồ đã
nói như vậy. Bà con mình phải tin vào lời Bác Hồ chứ...
Pả Mậu:
Mình mạng họ Hồ. không tin vào Bác Hồ thì còn tin ai... Nhưng mà... biết đến khi
nào, biết đến ngày nào mới đánh được cái đồn Làng Vây... Dân bản mình thì thật
sự kiệt sức rồi... Liệu có còn sống được đến ngày có cơm no áo ấm không?
Khiêm:
Bố ơi, ngày đó không còn xa nữa đâu...
chẳng phải bộ đội chúng con đã có mặt ở đây rồi sao?
Pỉ Thiềng:
Bộ đội... bộ đội chúng mày có đông không? Liệu có đánh nổi cái đồn to trên Làng
Vây không?
Rai: Đúng... Tao hỏi thiệt... bội đội mày là
bộ đội gì? Có đủ súng để đánh tan được bọn Mỹ ở Khe Sanh này không.
Su: Bà con không được hỏi như vậy, lộ bí
mật của bộ đội.
Pả Mậu:
Bí mật cái chi. Bí mật cả với dân Vân
Kiều bọn ta sao?
Miêng:
Đồng chí bộ đội. Cái gì bí mật thì
đừng nói. Nhưng cái chi mà tin được bọn mình thì nói cho bà con biết. Họ biết
được họ sẽ mừng, sẽ yên cái bụng. Cái bụng yên rồi thì chắc chắn sẽ vượt qua
được cái đói, cái khổ, cái chết để bám trụ thôn bản.
Khiêm:
(Sau 1 phút chần chừ, quyết định nói)
Thưa đồng chí xã đội trưởng! Thưa bà con... chúng con là bộ đội xe tăng ạ!
Tất cả:
( Reo lên) Giàng ơi! (Bỗng im bặt)
Rai :
(Gần như bật khóc) Đúng thế chứ
đồng chí?
Khiêm:
Tôi xin thề ạ! (Tất cả đám dân quân xôn xao: Xe tăng! Bộ đội xe tăng)
Pả Mậu:
(Sờ vào áo của Khiêm và Phước) Bộ
đội xe tăng thiệt ư? Xe tăng của miền Bắc đã vào đến đây rồi ư? Giàng ơi! Sống
rồi! Sắp no cơm ấm áo rồi... Này, Tao trả lại cái bánh lương khô... Bộ đội, mày
cầm đi.
Su: Thế mà suýt nữa Pả đã chiếm mất cái ăn
của bộ đội xe tăng rồi đó.
Pả Mậu:
Tao... À... tao chỉ cầm để coi có đúng
là lương khô không thôi...
Su: Cầm để coi. Không phải Pả định phản lại
lời thề của dân bản đó chớ?
Pả Mậu:
Không. Tao xin thề. Này, tao trả lại
lương khô cho bộ đội.
Khiêm:
Các đồng chí dân quân. Anh em chúng tôi
là bộ đội, hôm nay về đây là để gặp đồng chí Miêng xã đội trưởng và cũng là để
gặp bà con dân bản, nhờ đồng bào giúp đỡ bộ đội đánh được thằng Mỹ. Bộ đội Cụ Hồ
với đồng bào là con cái với bố mẹ. Vì vậy, con xin biếu bố mẹ những bánh lương
khô này...
Miêng:
Không được. Đồng chí bộ đội cần tôn trọng ý nguyện của đồng bào chúng tôi. Tất cả lương
thực của bộ đội là để đánh Mỹ. Bà con tôi dù đói khát đến mấy cũng không được
động vào.
Khiêm:
Đồng chí... Như vậy thì nguyên tắc quá.
Quân dân phải đồng cam cộng khổ chứ. Chúng tôi biết bọn Mỹ rải chất độc khiến
rừng núi, nương rẫy của đồng bào đã bị tàn phá.
Bà con mà đói thì còn giúp đỡ bộ đội thế nào được...
Rai: Đồng chí đừng lo. Đói thì đã có củ rừng.
Khát thì có nước suối. Mười thằng Mỹ cũng không triệt được đường sống của đồng
bào mình đâu.
Pả Mậu:
Đúng vậy. Bộ đội xe tăng này, cầm lấy miếng bánh này để tao còn ngẩng được cái
đầu lên mà nhìn rừng, nhìn núi... (Có
tiếng trẻ khóc)
Pỉ Thiềng:
(Bất ngờ tiến lên) Cho tao... (Giật lấy)
Pả Mậu:
Tại sao Pỉ lại lấy? Lúc nãy chính Pỉ đã mắng tao mà...
Pỉ Thiềng:
Cho tao xin... (Nói với bộ đội rồi đến
trước mặt Miêng và dân quân) Thằng cháu nội tao sắp chết vì đói rồi. Pả nó
đã chết bom, Pỉ nó đã chết đói... Tao phải cứu lấy nó, phải để nó sống tới ngày cả bản được giải
phóng, nó được no cơm ấm áo... Tao thề với bộ đội, với dân quân, tao chỉ nhai
bánh rồi mớm cho cháu tao. Nếu tao có nuốt tý nào vào bụng thì nó sẽ mọc ngay
cái cây giữa bụng... (Quay lại mớm cho
cháu) Cháu ơi, vì cháu, mệ xin chịu tội với dân bản...
(Tất cả đều quay mặt nhìn qua
hướng khác và rơm rớm nước mắt)
Tắt đèn, chuyển cảnh
Đăng ngày 13/10/2010 |