Wednesday, October 7, 2015

Lão Chộp

Truyện ngắn - Trần Đăng Khoa

xuanduc.vn : Thi ca của Trần Đăng Khoa thì có lẽ không cần phải giới thiệu. Nhưng truyện ngắn của gã thì không phải ai cũng biết. Thử giới thiệu một truyện này xem sao.

        I         Lão Chộp lại có khách. Chuyện ấy thì chẳng lạ. Nhà lão ngày nào chẳng rậm rịch khách khứa. Căn nhà nằm ngay bên con đường chính của làng. Con đường nối ba xóm, dẫn ra đến cổng đồng. Nhà lão lại có bể nước mưa trong vắt, một nửa chôn chìm xuống dưới lòng đất, nên bốn mùa nước mát lạnh, uống đến đâu, biết đến đó. Đang mệt và buồn ngủ, tợp một ngụm là tỉnh queo như sáo tắm. Bởi thế, người ra đồng đáo qua, kẻ về nhà tạt lại, làm chớp nghỉ chân, rồi tiện thể đánh đẫy một gáo dừa, gọi là hưởng tí lộc giời. Nếu không cũng sà vào cái chõng tre kê ở hiên nhà, bắn vài điếu thuốc lào. Cái điếu nhà lão là điếu cổ, loại điếu bát, nghe nói có từ đời vua Càn Long ở bên Tầu kia. Thuốc nào nhồi vào đó, hút cũng ngon, cũng ngọt lịm như rót mật vào cổ. Rồi thì say. Say đứ đừ. Say từ ruột say ra, đã hơn cả thuốc phiện, cứ gọi là đê mê từ chân tóc xuống tới tận kẽ ngón chân. Đời người, mỗi ngày được một choác như thế, có khác gì lên Tiên, lên Phật. Mà Tiên Phật cũng phải gọi bằng cụ. Bởi vậy, nhà lão luôn rục rịch kẻ ra, người vào. Toàn những tiên phật cả đấy. Nhưng ông khách đến nhà lão Chộp lần này lạ lắm. Không phải người làng. Cũng không phải người ở huyện, ở tỉnh, ở Hà Nội, trung ương, mà xa lắm, xa lắm lắm, nghe nói mãi bên kia Thái Bình Dương. Nghĩa là bên kia trái đất cơ đấy. Đó là ngài Peter Peterson, Đại sứ Hợp chủng quốc Hoa Kỳ. Quái, lão có quen ông ấy đâu nhỉ? Cả đời lão, đến cái tết con cọp này đã bước vào cái tuổi sáu tám, nhưng lão chưa bao giờ đi ra khỏi làng. Làm sao lão có được ông bạn vàng xa xôi thế, bệ vệ sang trọng đến như thế? 
II
Thực tình, nói có giời biết đấy, và cũng xin thề trước quỷ thần hai vai, lão Chộp không hề quen ngài đại sứ thượng nghị sĩ Peter Peterson. Lão vốn là thợ cày làng An Đoài. Nghề thợ cày là nghề gia truyền từ đời ông bà ông vải để lại. Nhà lão nghèo, lại neo đơn. Lão thuộc hạng độc đinh. Ông cụ thân sinh ra lão gặp phải cái cung số vất vả về đường con cái. Mà đâu chỉ riêng ông cụ. Ai ở cái làng này cũng vất vả đường con cái. Đẻ thì có đẻ. Nhưng khó nuôi. Có nhà đến chín, mười đứa con mà rồi chẳng còn một mống. Đứa leo cây, sa xuống đất: chết! Đứa rắn cắn: chết! Đứa trượt chân, rơi tõm xuống ao bèo: chết! Rồi đứa bị lên sởi: chết! Đứa đi chăn trâu, bị cảm nắng, thoạt tiên, đầu chỉ thấy váng vất. Thế rồi cũng lại lăn đùng ra chết. Chết cứ như đùa. Cụ thân sinh ra lão Chộp có đến 5 người con, ba trai, hai gái, trông cứ đều thau tháu, đẹp như tranh vẽ. Chúng chỉ bị đậu mùa nhì nhằng. Vậy mà rồi ai ngờ, chúng cũng lại cướp công cha mẹ, chúng theo nhau đi hết. "Hú ba hồn chín vía cái Gái ở đâu thì về...". "Hú ba hồn bảy vía thằng Buồi khoăm ở đâu thì về với chị, với em nhớ... ớ... ớ...". "Hú ba hồn chín vía...". Đêm nào, làng cũng cồn lên những tiếng hú hồn như thế. Tiếng hú eo éo rờn rợn vờn trên những tán cau, bụi chuối đen ngòm, vọng từ cổng đồng vào những ngõ xóm tối sẫm, hun hút mưa phùn gió bấc và rông rốc tiếng chó sủa, rồi lại từ ngõ xóm vòng ra ngoài cổng đồng. Những người đàn bà lớn tiếng, cả hơi đều được xung vào đội quân hú hồn. Thi thoảng cũng có đứa tỉnh lại. Ấy là hồn chưa đi xa, chưa bị lú đường, còn nghe được tiếng hú gọi mà lần về nhập vào xác. Còn nhiều đứa hồn đã lìa, mà không kịp gọi ngay là coi như đi đứt. Chúng đã bị giời bắt. Bà đồng Hỷ khoát tay quả quyết như vậy. Bà cụ ở mãi huyện bên, cách làng một thôi đường, một con sông, lại bị mù từ nhỏ, chỉ quanh quẩn trong cái điện thờ âm u hương khói mà cái gì cũng biết. Cứ như lời bà đồng thì trăm tội đều do ông giời cả. Tại Ngài tất. Ngài đỏng đảnh lắm, tham lam lắm, chỉ muốn có nhiều kẻ hầu, người hạ. Cứ đứa nào có tên đèm đẹp là Ngài bắt ngay. Thế là từ đó, đẻ con, người ta cứ thằng cu cái đĩ mà gọi. Có ông lão làm nghề đánh giậm, đẻ đến năm cô con gái. Lũ trẻ lau nhau trứng gà, trứng vịt, ăn cơm rau muống, tắm nước ao tù, mà thấc lên đẹp như tiên. Da trắng nõn trứng gà bóc. Môi chúm chím, ướt đỏ, trông đến mát cả mắt. Con gái thị thành cũng chẳng bén gót chân. Nhưng đến khi gọi tên thì nghe sởn cả da gà: Ếch, Ộp, Suốt, Suồn, Suột. Ấy vậy mà cũng đâu có thoát khỏi nạn giời. Cô Ếch đội nón ra đi sau một tuần bị chó dại cắn. Khổ! Không khéo cũng chỉ tại con bé có tên là Ếch. Thế thì đích thị là Ngài rồi. Chính ngài chứ đâu phải chó dại. Biết đâu, Ngài giở tính, lại thèm cái món đồng quê. Thế là khổ con rồi, con ơi! Bà đồng Hỷ bảo thế. Bà đồng đã phán là cấm có sai bao giờ!
 Bởi vậy, khi lão Chộp ra đời, ông cụ thân sinh lão gọi luôn là thằng Vồ. Cả làng từ lớn đến bé cũng gọi lão là thằng Vồ. Rồi cậu Vồ, anh Vồ. Sau này lớn lên, lão tự đổi tên là Chộp. Chộp với Vồ thì cũng thế cả. Ấy là cái tên để doạ... ông giời. Chẳng biết ông giời có sợ lão không, nhưng quả thật, Ngài cứ im thin thít. Bởi thế mà từ khi đẻ ra cho đến mãi sau này, lão chẳng ốm đau, sài đẹn gì, mà cứ lớn thôi thổi. Mười tuổi đã cao lưng cột nhà. Mười bảy tuổi, lão đã trị được con trâu hung dữ nhất của làng An Đoài. Ông giời lão cũng chẳng sợ. Cho đến cả Thiên lôi, Tầm sét có xuống, lão cũng chẳng coi ra cái thá gì! 
III
Thế thì lão sợ quái gì mấy con giời rổm, ấy là cái lũ quạ Mỹ. Khi chiến tranh leo thang bằng không quân của chúng vừa bung ra miền Bắc, lão đã sung ngay vào trung đội dân quânQuyết thắng của làng An Đoài. Với cây súng trường dài bằng nửa cái đòn gánh, trưa nào, lão Chộp cũng leo lên đỉnh cây gạo cạnh ao chùa, ngồi thu lu trên chạc ba, như một con chim cắt đang rình mồi. Lão đang rình máy bay Mỹ đấy. Rình mãi rồi chúng cũng mò đến. Chúng hét ầm ầm như sấm, như sét, nghe tưởng đứt màng nhĩ, hùng hổ cứ như ông Thiên lôi. Nhưng nhìn tướng mạo thì rõ ra quân ăn trộm. Chúng bay sấp ngửa, bay nhớn nhác như quạ vào chuồng lợn. Rồi tên lửa, rồi cao xạ, trung liên, rồi 12 ly 7 nổ rền khắp cả bốn phía. Lúc bấy giờ mới biết quân ta đông thật. Chỗ nào cũng dày đặc trận địa phòng không. Đạn nổ rền như ngô rang. Lão cũng đòm theo vài phát súng trường cổ lỗ. Thực tình thì lão chỉ bắn doạ. Lão nện bừa lên thinh không chứ nào có kịp nhằm gì. Thế mà con giời cũng khiếp vía, chạy đến vãi khói đít.
 Thế rồi, nhập nhoạng tối ngày 10 - 9 - 1966, lúc bấy giờ mới cơm nước xong, lão Chộp chưa kịp leo lên ngọn cây gạo thì bầy quạ Mỹ chẳng biết đi ăn sương ở đâu về, rồi bị đòn, bay đến khu vực làng An Đoài thì cháy bùng lên như một ngọn đuốc lớn. Lão Chộp sướng quá. Lão hét đến khàn cả giọng. Rồi cả làng cùng la hét, reo hò ầm ĩ. Rồi họ khua trống, gõ nia, gõ mẹt, gõ chậu thau, nồi đồng. Rồi lan sang cả mấy làng bên. Rồi thì khắp bốn phương giời, mười phương đất, chỗ nào cũng đụp đụp đẹt đẹt. Ngọn đuốc ma bấy giờ đã bành ra thành đống lửa lớn chùng chiềng đổ xuống mạn Ái Quốc. Phen này thì thằng lái ra tóp! Lửa phừng phực như thế, có là ông giời cũng chẳng thoát nổi. Toi rồi, con ơi! Cú này thì đời con thành chả rồi. Một miếng chả nướng cứ gọi là thơm phưng phức nhá! 
IV
Vậy mà hai tên giặc lái trong chiếc máy bay bị bắn cháy đêm ấy vẫn không bị chết, cũng không bị thui thành miếng chả thơm phưng phức như lão Chộp tưởng tượng. Vào khoảng tám giờ tối hôm đó, ông Nguyễn Đình Bệch, công nhân lái phà ở làng Đào Xá đi làm về, tình cờ nhặt được chiếc mũ phi công rơi trên cánh đồng làng An Lâm. Thế có nghĩa là tên giặc lái đã thoát khỏi đám cháy, đã nhảy dù rồi. Có thể hắn rơi ngay ở trên cánh đồng làng An Đoài, hoặc ở mấy khu vực quanh quanh đây thôi. Bí thư đảng ủy Nguyễn Đình Hiện và xã đội trưởng Nguyễn Danh Cân đều có chung một nhận định như vậy. Trung đội dân quân Quyết thắng đã được triệu tập tức tốc ngay trong đêm. Bằng mọi giá phải lùng bắt tên giặc lái đang lẩn lút đâu đó, không để cho hắn gọi đồng bọn đến giải thoát. Trung đội dân quân được bổ sung thêm một số thanh niên phụ nữ trong làng. Người có súng thì mang súng. Người không có súng thì mang đòn gánh, đòn càn, liềm hái, hoặc gậy gộc. Đạo quân truy tìm giặc lái chia làm ba mũi. Một mũi tiến về phía An Lâm. Một mũi tràn về mạn Quốc Tuấn. Lão Chộp dẫn đầu mũi vây quét ở khu vực An Đoài, Đào Xá. Lùng sục suốt đêm, chẳng thấy gì. Thằng lái chết rồi. Chắc chắn là hắn chết rồi. Cái mũ của hắn có thể vẫn còn sống, nhưng chính hắn thì đã bị cháy thành than cùng với chiếc máy bay. Lão Chộp nghĩ vậy. Rồi lão thung thăng dẫn quân về. Lúc bấy giờ đã khuya. Sương xuống mù mịt. Cả cánh đồng Mả Giai chờn vờn trong làn sương khói lãng đãng. Mảnh trăng thượng tuần xanh tái đang lặn xuống chân trời xa, hắt quầng sáng hấp hối lên đỉnh ngọn quéo đen sẫm. Cây quéo này, một thời nghe nói có ma. Khối bà đi chợ sớm qua đây, rồi cứ gồng gánh đi quanh gốc quéo cho đến sáng bệch mới thoát ra khỏi. Ma làm đấy. Bà đồng Hỷ bảo phải đóng vào gốc quéo ba cái đinh thuyền to bự cùng bao nhiêu bùa bà cho yểm mới trị được đấy. Bây giờ thì không còn ma nữa. Nhưng lão Chộp vẫn thấy rờn rợn. Linh tính báo cho lão biết có một điều gì đó không bình thường. Hay là vẫn còn ma? Mà đúng còn ma thật. Ma hiện lù lù ngay trước mắt kia, ở ngay trên đỉnh ngọn quéo kia. Lão Chộp dụi mắt nhìn. Một chiếc dù bùng biêng xanh xanh đỏ đỏ trong ánh trăng thoi thóp. Lão Chộp khoát tay ra hiệu cho cả nhóm tản ra xung quanh, tiếp tục lùng sục. Rồi lão trườn dọc bờ ruộng, men theo con mương đào. Có tiếng cá tũng toẵng đớp sương. Rồi tiếng thở phì phò bên kia mương nước. Thôi, đúng con giời rồi. Lão Chộp nhảy phóc qua mương. Rồi lão lăn một vòng xuống vệ cỏ, lăn luôn vào cái đống to xù đang nằm thở hổn hển. Lúc bấy giờ, lão Chộp mới bàng hoàng nhận ra mình chỉ có hai bàn tay không. Khẩu súng rơi đâu mất. Có lẽ nó đã văng xuống bờ mương bên kia. Tên gịăc lái nghển cổ nhìn lão. Lão Chộp ngỡ sẽ có một tiếng súng lục vang lên. Nhưng chắc chắn lão không thể chết được. Nếu có bị trúng đạn thì cũng phải trói hắn xong, lão mới chịu chết. Nhưng không. Không có tiếng súng nào cả. Tên giặc bàng hoàng nhìn lão. Rồi bất ngờ, hắn chúi đầu xuống bờ ruộng. Hình như hắn muốn chui xuống đất. Nhưng hắn không phải con lươn, con chạch. Làm sao mà chui được cơ chứ! Lão Chộp nhảy phóc lên người hắn, chẹn chặt cổ. Rồi phía sau, ông Sinh, ông Măng, ông Lơ cũng vừa ập đến. Người đè chân, người giữ tay. Thế là tên giặc lái bị tóm gọn... 
V
Rồi sự kiện đó qua đi. Cũng như bao chiến tích oanh liệt thời chống Mỹ rồi cũng qua đi. Lão Chộp không còn nhớ nữa. Những ông lực điền cùng bắt giặc với lão cũng không còn nhớ nữa. Họ bận bao công việc đồng áng, mùa màng. Chẳng ai còn nhắc lại chuyện cũ. Thế nhưng, viên phi công Mỹ bị bắt đêm ấy, ngài Peter Perterson thì lại không quên. Vừa đến Hà Nội được ít ngày, ngài đã trở về An Bình, thăm lại mảnh đất xưa mà cứ theo lời ngài thì đó là mảnh đất ngài có nhiều kỷ niệm sâu sắc.
 Lần này, ngài đi giữa ban ngày. Cùng đi với ngài còn có bí thư tỉnh ủy Phạm Văn Thọ cùng nhiều cán bộ cao cấp Bộ Ngoại giao. Lão Chộp cũng ra đón ngài. Lão đi cùng đám thợ cày, thợ cấy làng An Đoài. Cuộc đón tiếp diễn ra trọng thể theo đúng nghi thức đón khách quốc tế.
- Ông còn nhớ tôi không? Ông có mong tôi trở lại không?
Đại sứ Peter Perterson bắt tay lão Chộp và hỏi lão như vậy. Câu hỏi ấy làm cho lão rất đỗi kinh ngạc.
- Làm sao tôi lại nhớ và mong ông được. Ông không phải người làng tôi, cũng không phải họ hàng. Ngay cả bây giờ gặp ông giữa ban ngày ban mặt mà tôi cững còn chẳng thể nhận ra được nữa kia. Lúc ấy, ông khác lắm...
- Tôi khác ư? Khác thế nào? - Đại sứ đâm tò mò.
- Thì lúc ấy, ông là cái anh đầu trọc. Tôi muốn túm tóc ông cũng không túm được. Còn bây giờ thì ông thế này...
 Đại sứ Mỹ cười vang. Lão Chộp cũng cười. Câu chuyện xưa đã trở thành cổ tích. Còn hiện tại lão Chộp đang thũng thẵng cùng Peter Perterson đi thăm cánh đồng Mả Giai, thăm gian nhà kho chứa thóc giống nơi ngài từng bị nhốt. Tất cả giờ đổi khác. Cây quéo xưa đã chết. Đường ra đồng rộng thênh thang, có thể chạy hai hàng xe tải. Nhiều nhà xây đã mọc lên, có dáng dấp những biệt thự vườn. Rồi quán cháo lòng, quán cơm bụi, quán karaoke. Làng An Đoài đã váng vất đâu đó chút mùi vị thị thành. Đến chính lão Chộp cũng không còn nhận ra được dấu tích đìu hiu của cái làng quê xưa cũ. Nhưng Ngài Peter Perterson thì vẫn nhận ra. Ngài nhớ rất rõ từng bờ rào, từng mô đất trên con đường làng ngoằn ngoèo những vệt trâu đái và ngai ngái mùi cúc tần, mùi rơm rạ. Lão Chộp rất kinh ngạc trước trí nhớ kỳ lạ của viên phi công Mỹ ngày nào.
- Chỗ này dạo ấy không phải như thế này đâu. Nó có rãnh nước nhỏ...
- Phải rồi! Lão Chộp xác nhận. - Nó là rãnh đất ải. Ông tập tễnh bước trên những rãnh đất ấy...
- Tôi nhớ là tôi rất đau chân. Đau lắm. Lúc ấy, tôi ngỡ mình không phải bước trên mặt đất, mà đang giẫm lên những bàn chông. Vâng, đúng là những mũi chông nhọn hoắt...
Lão Chộp cười hô hố:
- Không phải chông đâu. Đất làng tôi đấy. Tôi vẫn giẫm trên những vạt đất ấy ra đồng mỗi ngày. Chỉ có điều là ông đi chưa quen thôi. Lúc ấy, tôi đã lột giày ông, vì cứ tưởng điện đài ông giấu trong giày. Nếu biết ông cộc tếch, chỉ có mỗi bộ đồ lề của lão phó cối, thì tôi đã chả bắt ông phải làm như vậy...
- Dạo ấy, tôi ngồi ở chỗ này, đúng không? - Đại sứ Mỹ chỉ cái bục gạch đã tróc vữa nham nhở ở góc sân kho hợp tác xã.
- Đúng đấy...
- Lúc ấy, có một người rót cho tôi bát nước. Bát nước rất lạ. Thoạt đầu chỉ thấy đắng ngắt. Đắng đến nỗi, tôi tưởng là thuốc độc. Nhưng sau lại thấy thơm, thấy ngọt. Một vị ngọt cũng rất lạ.
- Nước vối đấy. Còn người rót nước cho ngài là ông Lơ...
- Ông ấy có ở đây không?
- Ông cụ mất rồi. Mất cách đây mới vài năm thôi...
- Thật đáng tiếc. Cầu Chúa ban phước lành cho ông ấy. - Giọng Peter Perterson trầm xuống. - Quả thật là khi uống bát nước của ông ấy đưa cho, tôi biết là mình sống. Nhất định sẽ sống. Thế còn đống lửa? Tại sao lúc ấy họ đốt lửa to thế?
Lão Chộp cười:
- Họ đốt để nhìn rõ mặt ông đấy. Mặc dù lúc ấy, đốt lửa rất nguy hiểm. Vì lửa có thể là mục tiêu bắn phá của các ông...
Đại sứ Mỹ vẫn chưa hết ngạc nhiên:
- Thế còn những người xung quanh, họ la hét, họ cứ nhảy choi choi trước mặt tôi. Họ muốn làm gì tôi thế?
- À, đấy là những người có chồng, có con bị bom các ông giết hại đấy. Rất may là chúng tôi kịp nhét ông vào kho lúa, khoá lại, chứ nếu không thì không chắc chúng tôi đã bảo vệ được ông thoát khỏi những cơn thịnh nộ của họ...
Đại sứ Mỹ cười buồn, rồi quay sang lão Chộp:
- Cũng may là tất cả mọi việc đã qua rồi. Tôi rất mừng là cả hai chúng ta đều còn sống. Lần trước, tôi đến An Bình bằng nhảy dù. Bây giờ thì tôi đến An Bình bằng ô-tô. Tôi muốn chúng ta hãy khép lại quá khứ, cùng nhìn về tương lai. Tôi sẽ làm hết mình cho tương lai ấy. Ông bạn tôi, ngài Tali có nhờ tôi chuyển lời hỏi thăm ông, hỏi thăm bà con An Bình...
- Thế ông Tali là ông nào? - Tôi tò mò hỏi lão Chộp.
- Là cái ông phi công nhảy dù cùng với ông Buson. Cái máy bay cháy đêm ấy có những hai phi công cơ, bác ạ. Chúng tôi chỉ bắt được mỗi ông Buson thôi.
- Ông Peter Perterson, cụ ạ. - Tôi vội đính chính.
- Ở đây chúng tôi vẫn gọi là ông Buson. Vừa rồi ông ấy về đây, chúng tôi cũng gọi là Buson. Ông ấy cũng chẳng cãi gì. Thế thì đúng ông ấy là Buson rồi còn gì, có bác nhớ nhầm tên ông ấy thì có. - Lão Chộp cười hề hề. - Vừa rồi, nghe ông Buson nói, tôi mới biết ông Tali là bạn ông ấy. Hai ông cùng nhảy dù. Ông Buson đau chân, vì va phải cái gì đó trên máy bay ấy. Ông Tali khoẻ hơn, ông ấy rủ ông Buson chạy trốn, nhưng ông Buson không chạy vì chân đau...
- Thế ông Tali có chạy được không?
- Chạy được chừng hơn hai cây số, sang phía bên kia cánh đồng Tè. Tưởng ông ấy trốn ở đâu, hoá ra chui vào bãi tha ma. Ông ấy đào ở ria đống mả một khoảng hõm đúng bằng một cái ghế ngồi. Ông ấy ngồi ở đó, lấy lúa che bốn xung quanh. Mà khen thay, là ông ấy xoá dấu vết rất giỏi, người ông ấy to xù như thế mà đi qua lúa chẳng để lại tý dấu vết nào. Đến khi mấy bà đi làm cỏ lúa túm được ông ấy thì ông ấy lại giả vờ chết. Đầu ông ấy ngoẹo xuống, mắt nhắm nghiền, nhưng mồm lại thở phò phò...
 Lão Chộp cười khậc khậc:
 - Ông Tali bây giờ, nghe nói cũng làm to lắm, đâu như ông ấy là giám đốc hãng hàng không máy bay du lịch Mỹ. Khi ông ấy bị bắt thì cũng rất buồn cười. Y hệt ông Buson. Đầu cũng trọc lông lốc. Khám người chỉ thấy lỉnh kỉnh dăm cối. Các bố này cũng biết đề phòng có thể bị bắt, nên mang theo dăm cối, để đóng giả ông phó cối, dễ trà trộn. Nhưng mặt mũi ấy, chân tay ấy làm phó cối sao nổi.
- Chắc đó là thứ gỗ thay cho củi, dùng để nướng thức ăn gì đó chăng?
- Không! Dăm cối rõ ràng, bác ạ, chẳng lẽ tôi mà lại nhầm được?
Lão Chộp lại cười, vẻ khoái chí! Rồi lão đẩy cái điếu bát sang phía tôi:
- Bác hút thuốc đi. Thuốc lào Vĩnh Bảo đấy. Vừa rồi, ông Buson về đây, tôi cũng đãi ông ấy một chầu thuốc lào...
- Ông ấy hút được thuốc lào, hả cụ?
- Hút tốt. Ông ấy vê thuốc gọn lắm. Chắc hồi nằm khoèo ở trại giam Hà Nội, ông ấy có hút thuốc lào. Về cái khoản bắn thuốc này thì ông ấy chẳng chịu thua cánh thợ cày chúng tôi đâu...
Lão Chộp dừng lại. Lão nhìn tôi đăm đăm, vẻ như thăm dò, rồi lão dè dặt hỏi:
- Này, tôi hỏi khí không phải. Có phải bác là cái anh Hạt gạo làng ta không?
Tôi ngạc nhiên nhìn lão:
- Vâng! Có chuyện gì thế cụ?
- Ồ, thế thì hay quá! Tôi định khăn gói quả mướp tìm gặp bác lâu rồi kia. May quá! Đúng là giời phù hộ, bác ạ!
Nói rồi, lão Chộp lậng cậng bước vào buồng. Có tiếng lảnh cảnh va đập của chai lọ. Rồi lúc sau, lão lôi ra một cái xắc-cốt quen thuộc mà ta vẫn thường thấy ở các cán bộ xã thời kháng chiến chống Mỹ.
- Tôi có mấy cái này, làm đã lâu rồi, hồi còn là thanh niên trong trung đội dân quân...
Tưởng gì, hoá ra lại là thơ. Lão viết trong những cuốn sổ ghi công điểm hợp tác xã. Nhìn chỗ nào cũng dày đặc những chữ. Tôi lần giở từng trang. Bài thơ nọ nối bài thơ kia, trông rậm rịt như những vạt rau muống. Biết đâu trong số này chẳng có một đôi bài làm nên tên tuổi lão ở đời sau. Cứ xem lão nâng niu chúng, đủ biết đối với lão, đây mới chính là báu vật.
Tôi nhìn lão kinh ngạc. Hoá ra lão không muốn làm anh hùng, mà chỉ ôm mộng thành thi sĩ. Chuyện ta biết về lão vẫn chỉ là cái chuyện bắt phi công Mỹ. Chuyện ấy đối với lão lại là chuyện vặt. "Bác đừng viết làm gì, kẻo dân làng tôi họ lại bảo cái lão này già rồi còn thích khoe, mà toàn khoe những chuyện cũ rích. Tôi có cả bài thơ viết về ông Buson đấy! Hay là thế này. Đêm nay, bác nghỉ lại đây đi. Ta làm ấm trà đặc..."
- Vâng! Thế nào cũng có buổi tôi trở lại nghe thơ cụ. Còn bây giờ thì tôi phải đi rồi...
- Thế bác có về Hà Nội không, hay còn làm việc ở Hải Dương?..
- Tôi về Hà Nội ngay chiều nay, cụ ạ.
Lão Chộp mừng rỡ:
- Thế thì bác cho tôi gửi cho ông Buson cái này nhé.
- Cụ gửi gì thế?
- À, tôi muốn gửi biếu ông ấy chục trứng gà mới đẻ với nải chuối tiêu, gọi là chút quà quê. Lần trước, ông ấy về, cập rập quá, tôi lại quên khuấy đi mất.
- Ấy chết, cái đó thì tôi không chắc chuyển được, cụ ạ. Ông ấy bây giờ làm đại sứ Mỹ, chuyển quà không dễ...
- Thế thì bác cứ nhắn là tôi có nhời hỏi thăm. Tôi chúc ông ấy mạnh khoẻ. Và nếu ông ấy rỗi rãi, mời ông ấy về An Bình chơi với chúng tôi. Tôi sẽ đọc thơ tôi viết về ông ấy cho ông ấy nghe. Tất nhiên, nếu có về An Bình, ông ấy cứ đi bằng ô-tô như hôm vừa rồi, chứ đừng nhảy dù.
- Thế nếu ông ấy cứ nhảy dù thì cụ tính sao? - Tôi hỏi trêu lão Chộp.
- Thì... thì tôi lại phải... "chộp" ông ấy thôi. Mà điều đó thú thực với bác là tôi rất không muốn. - Lão Chộp cười. - Ấy cũng là nói cho vui thế thôi, chứ tôi với ông ấy đều già cả rồi. Ai lại còn đi làm cái trò trẻ con ấy nữa.
                        






 Đăng ngày 22/07/2008
Ý kiến về bài viết
  Gửi bởi: Nguyễn Kim - 22/07/2008

Truyện này hình như tôi đã đọc ở đâu rồi. Nay đọc lại vẫn thấy rất thú vị. Văn của ông này không thể trộn lẫn được, cứ tưng tửng mà  sắc ra trò. Đây là ký sự thì đúng hơn, nhưng ký mà viết như truyện ngắn. Ông Chộp là nhân vật có thật, hình như là đồng hương với TĐK. Ông này bắt Pitasown nên báo chí cũng đã nói đến. Nhưng qua ngòi bút TĐK rát thú vị. Cha này có khả năng viết người thật việc thật. Bài viết về Phù Thăng cũng như một cái truyện ngắn, mặc dù chỉ là một bài báo. Cám ơn nhà văn Xuân Đức đã góp phần đổi món cho quán Trúc Sơn Trang
  Gửi bởi: chaudonghuong - 22/07/2008

Chú ơi! cảm ơn chú nhé. TĐK viết hay đáo để, đúng là không thể lẫn vào đâu được. cái giọng văn têu tếu nhưng đọc xong vẫn ăm ắp trong lòng một tình cảm nào đó không diễn tả được về tấm lòng của những người nông dân VN muôn đời thật thà, chất phác mà bao dung. Giá như các nhà văn, nhà thơ cứ chịu khó viết nhiều chuyện hay như thế này để đọc chú nhỉ ? Cháu chúc chú thật khoẻ và vui.
  Gửi bởi: Lý Thu Thảo - 22/07/2008

hay quá. Lần đầu tiên tôi mới đọc văn xuôi của ông Khoa. Không ngờ ông ấy viết hay thế, mà lại rất buồn cười. Không biết đây là chuyện thật hay bịa. Ông Đại sứ Mỹ thì đúng là người có thật. Tôi đã nhìn thấy ông ấy trên vô tuyến. Rất cám ơn Trúc Sơn Trang
  Gửi bởi: Đông Ngàn - 22/07/2008

Cái lão cua đồng TĐk tẩm ngẩm thế mà đểu ra trò. Cuộc chiến tranh oanh liệt thế mà lão lại bảo chơi trò trẻ con. May mà đổi mới, chứ thời nhân văn  giai phảm khéo llão đi chăn bò, hay ngồi bóc lịch như Trần Dần rồi
  Gửi bởi: Khách qua đường - 22/07/2008

Ông thần đồng này chắc bí thơ nên chuyển sang văn xuôi, nhưng viết hay quá. Tôi đã đọc "Chân dung và đối thoại". Văn ông này hay hơn rất nhiều so với thơ của ông ấy
  Gửi bởi: Vũ Quý - 22/07/2008

Ông Đông Ngàn à ai mà quy chụp kinh thế. Cầu mong ông là cán bộ về hưu, chứ đương chức thì khối anh ra bã. Lão Chộp bắt phi công và săn máy bay có khác gì chơi trận giả. Đúng thế chứ có gì sai mà ông quy chụp khiếp thế.
  Gửi bởi: Trần Minh vượng - 22/07/2008

Chú đang ngồi ở quán Nét. Mệt quá ghé Trúc Sơn Trang, không ngờ vớ được cái truyên hay quá. cháu đang học năm thứ 3 trường Đị học Kinh tế Quốc dân, là đồng hương của ông Chộp, nhà ông chộp chỉ cách nhà cháu có mỗi cái ao thôi. Bác Khoa viết về ông Chộp rất hấp dẫn và rất chính xác. Chỉ co một cái không đúng, là cái điếu bát. Ông Chộp toàn hút điếu cày, làm gì có điếu bát, nếu ông Chộp có điéu bát và là điếu cổ thời vua Càn long thì ông Chộp đã có thể có triệu đô, đổi đời từ lau rồi chư không đói mèm như bây giờ. Vừa rồi con láo tích cóp tiền xe ôm mua được đàn vịt, chết hàng loạt. Lão đang nợ đìa, nợ bố cháu 1500.00 ngàn, không có khả năng chi trả
  Gửi bởi: Xuân Đức - 22/07/2008

Ấy ấy, theo ý tôi hiểu thì là bác Đông Ngàn khen văn của chàng cua đồng đấy. Kiểu khen cũng tếu như văn Khoa vậy. Bạn VQ đừng hiểu lầm.
  Gửi bởi: Đông Ngàn - 22/07/2008

Cám ơn nhà văn Xuân Đức đã hiểu đúng ruột gan tôi. Tôi đâu có quy chụp TĐK. Tôi là bộ đội, bị thương ở Khe Sanh, cụt một chân. Hiện tôi làm bảo vệ cho một xí nghiệp gỗ ở Đông Anh, Lương 800 ngàn. Tôi rất quý TĐK. Với tôi, ông K bao giờ cũng ấn tượng. Tôi nhớ có lần trên ti vi, nhân bàn về mỏ dầu gì ấy, nhà thơ đồng bãi ca tụng hạt gạo tuyệt vời, vậy mà chính ông ấy lại bảo, ta xuất khẩu gạo thứ nhì thế giới, đấy là xuất khẩu mồ hôi nước mắt đứng thứ nhì thế giới, chứ không phải ta đã giàu thứ nhì thế giới. Ăn thóc gạo bay thì chỉ ngang gà vịt thôi, muốn thành con rồng cất cánh phải bay bằng đôi cánh khác, phải trông vào khoáng sản, và khoáng sản đắt nhất là trí tuệ, vì một sản phẩm trí tuệ, một cái chíp điện tử, chỉ máy gram cũng đã bằng mấy tấn thóc gạo của nông dân rồi. Chừng nào VN xuất khẩu được trí tuệ thì lúc ấy chúng ta mới thực sự cất cánh. Lại một lần khác nữa, tôi đọc trong tạp chí Tuổi trẻ cười, có một phóng viên hỏi ông K, ta có nên có ngày nói dối 1-4 không? ÔNg K bảo, đối với ông K, ngày 1-4 là ngày đau buồn vì chúng ta đã mất một nhạc sĩ tài danh Trịnh Công Sơn. Chúng ta không nên nhập khẩu ngày nói dối làm gì. Nếu có ngày 1- 4 thì nên đổi là ngày nói thật. Ông phóng viên bảo, anh nói thế, hóa ra các ngày khác của chúng ta đều là ngày nói dối ư. Ông K bảo, đấy là anh nói nha, chứ tôi không nói thế đâu nha. Cái ông này biến báo như ma ấy
  Gửi bởi: Trần Đăng Khoa - 22/07/2008

     Nhà văn Xuân Đức vừa điện cho tôi, thông báo có cuộc hội ngộ khá tưng bừng ở Trúc Sơn Trang. Tôi thực sự cảm động trước sự quan tâm của các Đại ca. Xin đa tạ cảm ơn nhà văn Xuân Đức và các quý vị. Qua câu chuyện của cháu Trần Minh Vượng, tôi rất vui vì có thêm thông tin về lão Chộp. Không ngờ lão vất vả thế. Tôi không có địa chỉ của cháu Minh, nếu cháu đọc mấy dòng này, thì ghé qua chỗ chú Khoa nhé, chú ở 43 Bà Triệu, cách trường cháu học cũng không xa, lão Chộp đã nhờ chú chuyển cho cháu số tiền lão vay bố cháu mua đàn vịt. Cháu nhớ qua chú nhé. Một lần nữa xin cám ơn nhà văn Xuân Đức, ông chủ quán xởi lởi và vô cùng tốt bụng. TĐK

  Gửi bởi: Tha hương - 23/07/2008

Cuối chiều tàn ở Boston, chuẩn bị đóng cửa hàng, tôi lướt qua mấy trang Web Việt, thấy cái truyện vui quá. Văn ông này hoạt lắm. Hình như có thời, ông ấy là phó chủ tịch Nghị viện, về vườn chuyển sang làm ký giả chăng? Thế đấy, sau bao nhiêu đầu rơi, máu chảy, kẻ chiến thắng và kẻ bại trận đều đã bắt tay nhau. Ông Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cũng vừa qua đây. Vậy mà người trong cùng một nước thì vẫn thù hận, vẫn nhìn nhau như quân thù, quân hằn. Nhục. Trong số các đối thủ da vàng, chỉ có ông Cao Kỳ là hòa hợp nhanh. ÔNg Kỳ bảo, tôi chỉ muốn thống nhất đất nước, xây dựng VN thành một đất nước thống nhất, no ấm, giàu manh, dân chủ, nhưng tôi không làm được, người anh em cộng sản làm được. Nếu cộng sản lo được cho dân hạnh phúc, tôi sẵn sàng hô to Cộng sản muôn năm. Cái ông này ăn nói lạ. Cũng không ngoại trừ chính Nguyễn Cao Kỳ cũng lại là một anh cộng sản nằm vùng. Không có gì cộng sản không làm được. Cái này, các ông Cộng tài lắm, cchỉ có làm kinh tế là họ không biết làm thôi, còn lâu mới thoát khỏi bùng nhùng
  Gửi bởi: chau Ha - 23/07/2008

Chào bác XD! Đọc bài TĐK viết hay quá. Nếu cháu không nhầm thì đã rất lâu cháu có đọc một bài ký của TĐK viết về gia đình (vợ và con trai) một người trung đội trưởng hy sinh ngày 30-4-1975 ở chân cầu SG. Bài ký cũng rất hay và xúc động. "Trần Đăng này có tí Khoa. Lá rơi rất mỏng như là rơi nghiêng..." này tài quá bác hè? nay lên chức giám đốc hi vọng đừng mãi chạy theo quyền lực mà quên mất năng khiếu trời cho của mình để thỉnh thoảng viết cho mọi người thưởng thức. Hẹn gặp lại bác.
  Gửi bởi: Khách quen của TST - 23/07/2008

Gửi bạn Tha hương ở Boston
Bạn ơi, sao lại có cái “hình như” thế nhỉ . Chưa bao giờ TĐK là Phó chủ tịch Nghị viện về vườn như bạn hình như đâu nhé. Là người biết yêu văn học nước nhà mà sao bạn lại không nắm rõ trích ngang của các nhà văn thế nhỉ. Nhà thơ Trần Đăng Khoa ( tác giả- Lão Chộp ) vừa đảm nhận chức giám đốc Hệ Phát thanh có hình - Đài Tiếng nói Việt Nam – VOVTV đấy. Nếu muốn rõ hơn bạn cứ vào Google.com sẽ có 19.300.000 thông tin về TĐK đấy.  

  Gửi bởi: Vũ Khanh Trường - 23/07/2008

Bạn tha Hương nhầm cũng đúng thôi, vì có một ông Trần Đăng Khoa là Phó Chủ tịch Quốc Hội thật. Ông này mất rồi. Tôi nhớ cũng có đọc ở đâu đó TĐK kể câu chuyện vui về sự nhầm lẫn này. Hôm K từ đơn vị lính về quê, tự nhiên các cụ nhìn rất kính cẩn. Các cụ hỏi K chuyện thời sự chuyện chính phủ, chuyện bác Tôn, Khoa cứ nói vanh vách, cu cậu tưởng các cuj biết anh có đọc sách báo nên biết nhiều chuyện, nên cứ thao thao, đại loại toàn những câu chung chung ta thắng, địch thua, phe ta ngày càng vững mạnh, tiến tới, đến khi các cụ hỏi học quốc hội thì ăn uống thế nào, bấy giờ cu cậu mới ớ ra, vì xưa nay báo chí chỉ nói cáccụ làm, chứ có bao giờ nói các cụ ăn đâu. Bấy giờ cu cậu mới biết nhầm, cậu thanh minh minh nhưng chẳng ai tin. Bởi thế, bà Tha Hương nhầm cũng là phải thôi. Nhưng mà việc gì bà phải dấu tên, cứ cho tên tuổi đàng hoàng, bà chỉ là dân làm ăn, lại không thuộc đảng phái nào, mà nói như bà thì cộng sản cũng sẽ yêu mà chống cộng cũng yêu, chỉ ông Nguyễn Cao Kỳ không thích, ông ấy chống cộng thật sự đấy chứ, từng lái máy bay "oánh" Hàm Rồng cơ mà. Chỉ có điều, ông ấy chống cộng nhưng yêu nước, chính điều này làm cho ông ấy và những người cộng sản đều "ôm ấp" nhau. Thế thôi. Tôi cũng có mấy lần ngồi với Khoa trong cỗ cưới, K không biết tôi đâu, nhưng tôi thấy cha này chơi được.
  Gửi bởi: Đông Ngàn - 23/07/2008

Ông Xuân Đức ơi! Cái trang báo của ông rất hay. Những chuyện tán gẫu của độc giả cũng thú vị. Nhờ có những tờ báo thế này, cánh thảo dân không tiền như chúng tôi cũng không đến nỗi lạc hậu. Bài viết của ông về Khe Sanh tôi cũng thích. Tôi đánh trận ở Khe Sanh, mất một chân ở Khe Sanh, nhưng tôi cũng vẫn chẳng biết được Khe Sanh nó như thế nào, hồi tiếp cận trận địa vào đêm, đánh trong đêm, bị thương rồi ngất đi cũng trong đêm. Bây giờ qua thơ ông, tôi mới biết Khe Sanh nó như thế nào. Tôi hy vọng, tích cóp được chút tiền, sẽ làm một chuyến dối già, vào Khe Sanh viếng cái chân của tôi, viếng đồng đội ttôi. Đại đội tôi dấnhtrận ấy, sau đánh tiếp ở Ái Tử, cả tiểu đoàn chỉ còn lại hai thằng. Tôi biết ơn ông nhiều lăm, dù ông không biết tôi và tôi cũng chưa bao giờ nhìn thấy ông, cũng cám ơn chú cua đồng Trần Đăng Khoa nữa, mà nói thế, không biết hắn có giận không, hắn chắc cũng ở cái tuổi 50 hon rồi. Tôi xưa còn làm thơ tặng hắn, đọc cho đơn vị nghe, hồi ấy ông chính trị viên hay nói chuyện thơ Khoa, ông ấy bảo có mấy chục nước đến xin nuôi Trần Đăng Khoa, nhưng Đảng không cho vì sợ ở các nước tư bản, tài năng sẽ bị thui chột
  Gửi bởi: Xuân Đức - 23/07/2008

Chào anh ĐôngNgàn ! Thì ra anh là lính chiến Khe Sanh. Anh cố gắng vào thăm lại chiến trường xưa đi. Tôi sẽ đón anh. Trên trang web này ngoài mấy bài thơ ra, tôi có viết một truyện ngắn về trận đánh tại làng Vây đấy, anh có đọc không ?  Nếu chưa đọc thì vào mục Tạp văn tìm chuyện Kỉ vật 40 năm. Chúc anh thật khỏe để trở lại KS.
  Gửi bởi: ĐÔNG NGÀN - 23/07/2008

Tôi đều đã đọc rồi. Đọc tất cả những gì có trong báo của ông và của Trần Nhương. Tôi thích lắm. Nếu vò Khe Snh, tôi sẽ đén thăm ông, ông tiếp tôi chứ. Năm ngoái Hội cưu chiến binh tổ chức vào nghĩa trang Trườg Sơn, tôi có vào đấy, có qua Quảng Trị, tiếc là lúc ấy chưa biết ông, cũng chưa biết intơnet. Bây giờ thì tôi nghiện in te nét rồi, Thằng con làm thiết kế xây dựng, nó mua máy moi nên thải cho tôi cái máy cũ. Cạnh nhà lại có nhà nghỉ có intenet không dâ. y nen minh sài chùa. May thế
  Gửi bởi: Bím tóc dễ thương - 23/07/2008

Bác Đức ơi! Cháu là sinh viên trường Đại học Khoa học Xã hội và nhân văn. Bọn cháu đều rất hâm mộ anh Khoa. Chúng cháu vẫn muốn gọi TĐK là anh vì nhà thơ không có tuổi. Những đứa quý anh K, không đứa nào không biết bài thơ dân gian này:" Anh Khoa ơi hỡi anh Khoa/ Ngoài thềm rơi cái lá đa bao giờ/ Cua khôn ngoi hết lên bờ/ Còn chú cá cờ mãi chả chịu khôn/ Đợi mưa trên đảo Sinh Tồn/ Chẳng bằng ngồi đợi cái...ấy... của em" Câu cuối cùng lục bát rất chuẩn âm luật, nhưng vì viết ra, hoặc viết tắt, cháu sợ ông Đồ Nho Xuân Đức sẽ vứt béng cái commen này đi, nên đành phải để thất luật đấy
  Gửi bởi: Liên Nam - 23/07/2008

Tôi rất tâm đắc với những ý kiến bàn về TĐK nhân có sự xuất hiện của Lão Chộp. Khoa nó có tài đấy. Tôi chẳng thấy vui tý nào khi cậu ta lên cấp lên chức. Chúng ta chẳng thiếu gì những ông Giám đốc đầy tiềm lực, nhưng tài năng văn chương vẫn rất hiếm hoi. Cứ là anh binh nhì mà viết văn hay, vẫn còn hơn làm một ông Tướng võ biền mà ngoài thanh gươm ra chẳng còn có gì để lại. Tôi không tính cái truyện pha màu báo chí này đâu, đọc cậu này, bao giờ tôi cũng thấy ở cậu ấy có một cái gì ấy. Cái gì thì tôi không nói rõ ràng ra được, vì tôi chỉ là người làm khoa học, không phải dân văn. Người đời quý Khoa vì cái đó đấy, chứ không phải cái quá khứ thần đồng gì đó đâu. Không hiếm người đầu tiên xuất hiện còn rực rỡ hơn TĐK, nhưng nay có được công chúng quan tâm nhiều như K đâu. Vì thế, thấy cậu ấy lên chức, tôi cứ thấy tiếc, anh Xuân Đức ạ
  Gửi bởi: Xuân Đức - 23/07/2008

Thân gửi anh Liên Nam ! Điều anh tiếc ( hay nói đúng hơn là lo ) cho một tài văn mà phải làm quản lý là có cơ sở đấy. Quả thật có nhiều người đang là một cây bút tài năng, đến khi làm quản lí là tịt luôn, hoặc có viêt cũng chẳng ra sao nữa . Tuy nhiên, với TĐK thì có lẽ không đến nỗi, bởi vì gần đây bạn đọc vẫn được thấy những sáng tác khá nhuần nhụy của K. Tất nhiên, cũng phải công nhận là thời gian bị mất khá nhiều. Tôi cứ nghiệm bản thân tôi thì biết ( mặc dầu tôi không thuộc diện có tài ). Nhưng anh Nam ơi, nếu những người có nghiệp vụ giỏi ( ở trên tất cả các lĩnh vực) mà đều không tham gia quản lý, thì chẳng lẽ những người quản lí lại phải chọn người nghiệp vụ kém sao ? Khó thật nhỉ !
  Gửi bởi: Liên Nam - 23/07/2008

Anh Đức ơi, tôi rất quý Khoa, dù chưa một lần gặp. Tôi cũng rất quý anh, qua một loạt các trang viết. Tôi thích văn xuôi của anh. Cái đó sẽ còn lại. Kịch anh cũng xúc động, nhưng vẫn bị ảnh hưởng chất tuyên huấn, hay vì do đoàn kịch Quân đội diễn mà nó cứ cứng nhắc ra như vậy. Anh có biết câu ngạn ngữ này không nhỉ "Sờ vú đàn ông còn hơn xem văn công quân đội". Kịch anh toàn do "Văn công quân đội" diễn nên tôi đâm phân vân, không biết nói thế nào cho phải. Nhưng tiiểu thuyết của anh thì tôi rất thích. Ý kiến ông bạn Khang Trường gì đó nói rất đúng đấy, rất đáng lưu ý đấy. Còn các bài viết của K, tôi đều tìm đọc cả. Cậu này vẫn có một cái gì đó rất khác người. Cuốn Chân dung và đối thoại của cậu ấy vẫn là một cuốn sách rất đặc biệt. Một thời khen chê loạn xạ. Khen không đúng mà chê cũng không đúng. Tôi đã mua đến hai chục cuốn tặng bạn bè ở cả trong nước và ngoài nước. Bây giờ thỉnh thoảng, tôi vẫn đọc lại. Nếu tôi có một tỷ đồng, tôi sắn sàng tặng cậu ấy luôn để cậu ấy chỉ có ngồi viết thôi, viết đúng những gì cậu ấy nghĩ, không phải hệ lụy. Tôi tin sẽ có cái gì đó rất có ích. Tiếc là tôi không phải đại gia. Mà đại gia thì họ lại không quan tâm đến điều ấy, và nếu có quan tâm thì người ta cũng chẳng được cái gì. K không phải cái đích của những toan tính. Tôi thực sự tiếc cho K. Tham gia Ban chấp hành HNV làm gì, làm Giám đốc làm gì, dính vào những hư danh ấy là hệ lụy lắm, mình không còn là mình nữa. Ở ta, làm cán bộ là hèn lắm. Mà không làm được đâu. Người không phải của mình. Lại vướng rất nhiều ban bệ dằng, kéo, kìm hãm lẫn nhau. Với cái cơ chế như của mình, mọi cá tính sẽ bị nghiền nát hết. Ai có chức cũng không có quyền thực lực, có muốn làm cũng chẳng làm nổi việc gì. Anh thủ trưởng lại cư phải nịnh trên nịnh dưới. Nịnh chiều cả nhân viên, quần chúng. Hèn lắm. Nếu không chịu hèn thì sẽ đi tong chỉ sau một kỷ bỏ phiếu tín nhiệm. Thế nên ai đó có tín nhiệm cao, tôi lại rất nghi ngờ. Người đó chắc chắn không phải là người tử tế. Chỉ là một trong hai loại. Hoặc phát xít, độc đoán. Hoặc lưon lẹo, hèn mọn. Anh từng làm quản lý rồi, chắc anh biết hơn ai hết chuyện đó. Ở đâu cũng thế thôi, nếu đó là cơ quan nhà nước. Thế nên tôi chẳng muốn cậu K dính vào hệ lụy. Tôi tâm sự với anh điều này cũng là quý cậu K thôi.
  Gửi bởi: Phụng Sồ - 24/07/2008

Cám ơn bác Đức họ Xuân
Làm thơ cũng giỏi, viết văn cũng tài
Lại còn mở quán lai rai
Nhắm văn chương, lại nhắm cả cái ngoài văn chương
Đã qua trăm nắng, ngàn sương
Ngọt bùi cũng lắm, tai ương cũng nhiều
Gủi bác muôn nỗi thương yêu
Tôi luôn thơ thẩn sớm chiều Sơn Trang

  Gửi bởi: chaudonghuong - 24/07/2008

Chú ơi! Cháu cũng không thấy vui khi TĐK lên làm giám đốc. Bằng chứng mười mươi là như bác PTD ấy- bỗng nhiên bắt bác làm cái chức TBT báo DĐVNVN để suốt ngày chạy ngược chạy xuôi lo đảm bảo đồng lương cho anh em trong toà soạn khỏi chết đói. Vậy thì còn tâm trí, thời gian đâu nữa mà sáng tác hả trời?
Bác Hữu Thỉnh cũng thế-ngày xưa viết "anh xa em trăng cũng lẻ mặt trời cũng lẻ "hay thế mà sau này lên làm cái chức CT HNV rồi chẳng thấy viết gì hay mà chỉ thấy toàn đi lo đám tang và đọc điếu văn. Mà chú ơi, cháu nói nhỏ chú nghe, sao đám tang nào bác HT cũng đọc điếu văn thế nhỉ. Cháu cứ tưởng đọc điiêú văn là phải người thân thiết chứ nhà văn nào mất bác ấy cũng đọc thế thì cảm xúc chai cứng mất, đó là chưa kể đọc điếu văn nào bác cũng khóc nữa thì hết khổ. Đúng không chú?

  Gửi bởi: Xuân Đức - 24/07/2008

Đồng hương ơi, mấy hôm trốn đi đâu thế, xăng dầu mua đầy rôi thì thôi chứ. Mà cái tội chỉ biết đầu cơ một mình, không báo cho dân vùng sâu vùng xa này biết với, bây giờ 2 xe máy của chú chẳng có giọt xăng nào để đi cả. Thế là thiếu tình giai cấp đó nghe chưa. Còn nói chuyện bác H Thỉnh đọc điếu văn thì khổ cho bác ấy lắm. Làm quan là phải thế đấy. Anh là người đứng đầu một cơ quan, phải lo đình đám cho mọi người.Nếu chỉ đọc diễn văn cho người này mà không cho người khác là có vấn đề ngay, đồng hương hiểu chưa ? Đây là chuyện trách nhiệm công bằng, không làm khác được. Hu hu..thương bác ấy lắm nhưng không thể làm thay vì không ai bầu chú lên làm Chủ tịch hội cả. Ha  ha..
  Gửi bởi: chaudonghuong - 24/07/2008

Chu cha ơi, chú vẫn chưa tởn cái chức giám đốc mà chú đã mang để rồi chuốc vào thân bao hệ luỵ sao? Hi, hi...Cháu thấy người ta chen nhau làm giám đốc, ngớ ngẩn thật chú nhỉ, nói thật có cho cháu cũng không làm mặc dù làm nhân viên lắm khi cũng khổ. Chú đã nghe ai đọc thơ này chưa: Đời nhân viên ngày 2 buổi đi làm. Yêu cơ quan qua tiền lương, tiền thưởng. Ai bảo nhân viên là sưởng. Việc lu bù, đầu óc cứ ong ong. Có một chiều trốn việc nhậu cùng đám bạn thân. Xếp bắt được chưa quát câu nào đã khiếp. Cô tiếp viên nhìn tôi cười khiêu khích. Bỏ nhậu nửa chừng xấu hổ quá đi thôi.Về đến cơ quan không dám nói một lời. Viết bản kiểm điểm xong tôi ngoái đầu nhìn lại. Nắng đầy trời mà lòng tôi tê tái. Cuối tháng này lương thưởng sẽ sao đây.?.." Chú thấy bất công không khi cháu hỏi chú: Xếp đi đâu ở quán nhậu mà bắt được nhân viên? He, he,he...
Còn phần mình cháu thành thật nhận khuyết điểm. Lần sau có gì tăng là cháu báo ngay cho chú nhé. Mà chú ơi, chú cứ lo chuẩn bị đi, kiểu này còn tăng dài dài.

  Gửi bởi: Khách hàng của TST - 24/07/2008

Ông Đức ơi, tâm sự của bạn đọc Liên Nam nào đó với ông về TĐK đã làm tôi khóc đấy. Tôi không tiếc mà chỉ lo, một nỗi lo mơ hồ nơm nớp vì tôi cũng như nhiều bạn đọc yêu quý TĐK, chúng ta quá hiểu môi trường làm việc hiện nay.Tôi đang là một công chức làm việc ăn lương đây, chán lắm ông Đức ạ. Những kẻ bất tài, cơ hội, leo lên nắm chức nắm quyền “nhiều như quân Nguyên”. K của chúng ta rồi sẽ ra sao đây nhỉ? Tôi lo quá nhưng tôi rất tin K sẽ làm được, bởi K có tài. Đặc biệt TĐK có con mắt rất tinh đời, sự thật giả của người đời K nhìn thấy hết đấy. Vì thế, ông hãy động viên K. Có chiêu nào hay rút ra từ thời làm “thuyền trưởng” thì truyền lại hết cho K ông Đức nhé. Thấy TST xôm tụ đông vui vừa mừng lại vừa lo, nhớ giữ gìn sức khoẻ đấy ông chủ quán tốt bụng ạ. Chúc ông mọi điều tốt lành.

  Gửi bởi: Xuân Đức - 24/07/2008

Hu hu..ông bạn Khoa ơi, vào đây mà đọc. Người ta lên được chức, bao nhiêu người xúm vào hô hoán, cậu lên chức thì bao nhiêu người vừa tiếc vừa lo, bạn khách hàng còn khoc nữa đấy, cứ y như đang bị vào Hỏa lò..Trời ơi, bạn ấy còn bảo tôi truyền mấy "chiêu " khi làm thuyền trưởng..À, để tôi mách cho nhé. Khoa cứ tìm bài thơ của ông anh Trần Nhuận Minh , bài thăm đứa cháu làm quan bị mất trộm ấy, đọc bài ấy xong tự khắc biết sẽ phải làm gì. Ha  ha..
  Gửi bởi: LÁ CỎ - 03/12/2008

TẶNG KHOA
Thế là Đăng Khoa cũng đã đăng khoa
Thế mới phải mà thấy lòng chẳng phải
Trái tim nhà thơ mềm hơn tim trai gái
Nhịp tim thơ có hoà nhịp tim quan ?
Công chức  ở ta công chức muôn ngàn
Chốn văn nghệ tài năng đâu mấy kẻ !
Làm xếp - lên cao - xếp nào cũng thế
Mộc đỏ - kí tên - chiêu đãi tiệc tùng
Ngập đầu vào một mớ bùng nhùng
E ngọn bút sẽ nhạt nhoà chất lửa
E cái lưng sẽ khó còn thẳng nữa
E  nàng thơ sẽ bay mất về trời
E bạn văn phải tìm kiếm hụt hơi
E  e  lắm cánh buồm thơ mất gió
Chỉ cầu chúc anh mãi là Khoa ngày đó
3-11-08
Lá cỏ.

  Gửi bởi: NGUYỄN ĐỨC THIỆN - 22/02/2009

Tôi đọc xong Đảo chìm, một cuốn tiểu thuyết mi ni rất tuyệt vời rồi mới lần vào đây đọc tiếp ông Khoa. Hay. Ông này viết cái gì cũng hay, cả thơ, cả văn, cả trả lời phỏng vấn. Tôi tâm đắc nhất ông Khoa khi ông trả lời nhà báo rằng, cái nguy cơ nguy hiểm nhất của văn chương Việt Nam là cái bệnh nhạt. Nhạt rất nguy hiểm là rất khó chữa và có nguy cơ lây lan phát triển rất nhanh. Nhạt không phải cái xấu để người ta có thể lên án và sửa chữa. Nguy hiểm hơn, nhạt lại được các nhà quản lý ủng hộ vì nó bảo đảm sự ổn định. Nhạt không có gì nổi cộm để người ta phải sửa chưa, nó chỉ tiêu hủy cá tính, tiêu hủy sức sáng tạo thôi. Và như thế là băng hoại. Nguy hiểm ở chỗ đó. Hay thật. Chưa có ai bắt bệnh chuẩn như ông Khoa
  Gửi bởi: nguyen tron - 29/07/2009

neu coï ai biãntap thi qua hay
  Gửi bởi: Phương Lan - 30/11/2010


Cháu muốn gửi lên trang web của chú truyện ngắn "cây trai bí ẩn" để xin ý kiến bạn đọc cho một cây bút còn non trẻ, vừa mới chào đời như cháu. Cháu hi vọng chú không từ chối.
Phương Lan


  Gửi bởi: Nguyen Viet thang - 28/01/2013

chao a khoa!toi la Thang la con trai cua laoChop.cam on a da co bai viet ve bo toi.mong mot ngay dc gap a o An Binh-Quoc Tuan

Nhận xét

Chia sẻ cho bạn bè

Bài viết liên quan