Thursday, October 8, 2015

QUYÊN - Chương 2


Tiểu thuyết - Nguyễn Văn Thọ

Chương 2

Gã trằn trọcTôi biết em chẳng bao giờ yêu tôi cả. Tôi chiếm đoạt thân xác em và thỏa mãn tới cùng cực mọi thèm khát, nhưng tôi biết, em chưa khi nào yêu tôi! Đó cũng sự cân bằng, sự trả giá, bởi vì chúng ta gặp nhau, tôi đã chiếm đoạt thân xác mà không có tình yêu...Nói toạc ra là trước đây, tôi cũng chẳng yêu em. Yêu là cái cục cứt. 

Tôi chẳng dấu gì em. Tôi đã một lần có vợ. Vợ tôi không đẹp được như em. Nhưng chúng tôi yêu nhau. Cô ấy là diễn viên múa thuộc đoàn văn công X. Chúng tôi có một căn nhà cấp bốn sập sệ ngoại thành Hà Nội. Còn tôi, khi ấy tốt nghiệp Đại học Lâm nghiệp xong được phân công về Bộ, trong bộ phận Nghiên cứu phát triển rừng đầu nguồn. Suốt một thời, tôi nghĩ rằng, cô ấy là người đàn bà đẹp nhất trên đời. Mà nói thực, thân hình vợ tôi cũng tuyệt lắm. Tôi muốn có một đứa con, nhưng cô ấy chưa muốn. Cô ấy nói, nghề của em chủ yếu trông vào thể hình. Bây giờ còn múa được, có con thì ai dùng, lấy gì mà ăn? Cô ấy có lí, có một diễn viên cùng đoàn, sinh một con rồi nom như bà Phán. Có ai muốn xem "bà Phán" múa đâu! Mà tôi thì chưa nuôi được vợ. Nhưng rồi năm sáu năm trôi đi, cô ấy cũng chẳng khá hơn trong nghề nghiệp tí nào. Vợ chồng vẫn cứ hai cái bếp dầu, một cái giường phân phối và hai cái quạt con cóc. Bát đĩa cái sứt, cái mẻ.  Tôi đi công tác liên miên nên chẳng khi nào đưa vợ được một xu.  Cô ấy nạo thai tới bốn, năm lần trong hai năm. Lần cuối cùng, có một sự cố kĩ thuật, cô ấy vĩnh viễn không bao giờ được làm mẹ. Tuy thế, tôi chưa khi nào hao giảm tình yêu với vợ. Đôi khi nghĩ lại, tôi oán cái vô dụng của chính mình. Năm ấy đoàn đi biểu diễn ở Tây Nguyên, biên giới, hải đảo. Ba tháng sau về,  cô ấy lăn ra ốm hơn hai tháng. Tưởng chết. Khi ấy thương vợ lắm mà chẳng có cách nào thoát ra khỏi hoàn cảnh khó khăn bấy giờ. Lúng túng vô cùng.
Thời gian ấy, người ta ào ạt tổ chức các đợt xuất khẩu lao động. Đoàn văn công của cô ấy có hai xuất. Bàn đi tính lại, tôi để cô ấy đi. Làm thằng đàn ông, không nuôi nổi mình, phải để vợ đi xa kiếm tiền là sự hèn hạ, kém cỏi không thể tha thứ! Người ta bấy giờ có câu, cho vợ cho ra nước ngoài kiếm ăn, như có xe đạp Pờ-Rô mang ra Bờ Hồ không khoá. Tôi cóc tin! Sau này khi đã đổ vỡ hết cả, tôi tự trách mình.
Xa nhau sáu tháng, tôi trống chếnh vô cùng. Tôi ăn uống vạ vật. Bạ đâu ăn đó, rộc rệch hẳn đi. Những chuyến công tác dài ngày trên rừng còn có anh em lâm trường, anh em các xã vùng núi, vui vui một chút! Vật chất, ăn uống có khi  đỡ hơn là sống tại nhà mình ở Hà Nội.
Tôi nói thêm cho em biết rằng, công việc của tôi rất thú vị. Có thể chính vì thế mà đôi khi tạm quên đi nỗi buồn khi biết, mình chẳng bao giờ có một đứa con. Thường sống với rừng, những khu rừng nguyên sinh đầu nguồn với bao bí mật, mà khi nghiên cứu nó, thấy đầy hấp dẫn. Hấp dẫn tới ma quái. Nhưng người ta không thể uống nước lã để yêu. Dù yêu vợ hay yêu rừng. 
Yêu! Người ta nói trò cặp bồ yêu đương lung tung trong những đội quân xuất khẩu làm tôi như ngồi trên chậu lửa. Hơn tháng sau, một lá thư nồng nàn thương nhớ của cô ấy bay về. Tôi nghiến ngấu đọc, cũng yên lòng đôi chút. Đêm, tôi nhớ vợ, nhớ lắm. Tôi nhớ miên man, cồn cào những lần ân ái, nhớ mùi tóc, mùi nách, mùi miệng... bao nhiêu năm đã quen hơi bén tiếng rồi, thoắt một cái, tôi cách vợ cả nửa vòng trái đất. Cuối mùa đông năm ấy, cơ quan tôi cũng có hơn chục xuất đi Nga. Tôi vón vén toàn bộ những gì cô ấy gửi về, bán cả xe đạp, hai cái quạt con cóc, tất cả được hơn hai chỉ, đút lót bằng được, nịnh bợ mãi với hai ba lần bia hơi cho tay nhân sự trên phòng lao động, để nhận một xuất sang Nga. Biết chắc có một xuất đi Nga rồi, tôi liên lạc với vợ gấp mà chắc cô ấy không nhận được tin.
Tôi bay sang Nga. Lại vay tiền mua hàng mang sang bán. Khốn nạn, lần đầu tiên trên đời, để tránh thuế quan Nga tôi phải mặc ba cái quần bò, ba áo bò, dăm áo phông trên người, suốt chuyến bay như bó giò, cố ngủ mà chẳng thể ngủ được. Chuyến bay dài thế...
Máy bay hạ cánh. Tất cả đám quân ba bốn trăm người, đồng phục toàn bò là bò, xanh lét sân ga Mouscau, dóng hàng chui tuốt vào đoàn xe Bus, rồi chuyển lên tầu hỏa. Mệt nhoài vì vạ vật gần ngày ở Nội Bài, rồi bay hơn chục giờ, lại tăng-bo mấy lần, chúng tôi ngất ngây, nửa tỉnh nửa thức, trên chuyến tầu chạy như điên hai ba ngày trời không nghỉ. Ngó xung quanh toàn tuyết là tuyết.
Hơn một tháng, tôi vẫn khó quen với cái lạnh khắc nghiệt trong những khu rừng Taiga, nhưng phải chịu vậy thôi. Bù lại,  cuộc sống vật chất hơn hẳn ở nhà. Ăn uống no, thừa thãi bánh mì và sữa, và làm việc cũng cật lực. Tôi ở đội thuộc một lâm trường khai thác gỗ, đúng với cái nghề của tôi. Chỉ khác là xưa kia, mình chỉ đạo công nhân, còn bây giờ, chính mình làm những việc ngày xưa đã hướng dẫn họ. Mà còn tồi hơn, khi mỗi người công nhân Việt Nam khai thác gỗ, được bọn Nga ngố khoán tới hơn mười  khối gỗ một ngày. Mười khối gỗ một ngày! Em biết không, cắt, cưa, băm và xếp bằng máy cả đấy mà giữa trời lạnh mồ hôi vẫn vã ra, ướt đầm vai áo. Mấy ngày đầu chưa quen việc, vâm như tôi mà chân tay như chẳng còn là của mình nữa.
Gã nhỏm dậy châm một điếu thuốc, gương mặt gồ ghề chợt lóe trong đêm tối. Gã nhớ lại, cảm thấy như trong bóng tối ở toa tầu năm ấy, cảnh lần đầu tiên gã tới thăm vợ. Cách nhau cả hơn hai ngàn cây số, bao nhiêu thương nhớ tạo nên sự tưởng tượng của gã về đêm đầu tiên trên xứ người sẽ hưởng thụ tình vợ chồng. Gã cười thầm, nhớ cặp vú của vợ. Bầu vú bên trái có cái nốt ruồi đỏ mà gã gọi là "cái ti thứ ba"Mỗi lần yêu thương, gã bú vào đó như đứa trẻ. Sự tưởng tượng của gã phong phú và mạnh mẽ tới mức tràn cả vào giấc mơ, khi gã gục mặt xuống chiếc bàn nhỏ, ngủ thiếp đi trong nhịp lắc nhẹ của con tầu cao tốc và, giật mình tỉnh giấc khi dương vật gã cứng đanh, làm cho khoảnh bụng phía trên căng và tức.
Cuộc gặp của chúng tôi trong ngày đầu tiên mang lại cho tôi hạnh phúc, niềm khao khát bao lâu được ăm ắp thỏa mãn. Tôi lao sầm vào vợ, không thèm khóa trái cửa. Căn phòng có hai người nữ khác cùng ở đã sơ tán. Gường cũng đủ rộng. Tôi ôm chặt lấy vợ, bấu vào cô ấy. Tôi muốn tan ra, hòa vào vợ. Tất nhiên vợ tôi cũng đáp lại tình cảm của tôi. Mắt cô ấy sáng rực, nồng nàn. Hoan hỉ lắm. Tôi không hề biết rằng, những biểu hiện của tình yêu, tình dục thường lấn lướt, trộn lẫn không thể phân biệt được. Tôi sẽ ở lại đấy thêm một hôm, quá sang ngày thứ hai, bất chấp khi trở về đội, sẽ bị  trừ lương một ngày và tiền thưởng quý.
Gã lại rít thuốc. Đôi mắt gã trong đêm tối, mỗi khi điếu thuốc hồng cháy, ánh lên những tia sáng man dại. Gã bất ngờ dụi điếu thuốc một cách dữ dằn trên chiếc đĩa nhỏ. Trong đầu gã hiện ra mồn một cái buổi chiều dài dằng dặc chờ vợ đi làm ca hai trở về. Gã lang thang quanh khu nhà ở cũng chẳng rộng lắm. Nước Nga bao la, lạnh rát trong tuyết trắng. Gã mò vào một quán rượu và giết thì giờ ở đó với những vại Kờ vát màu đen có vị hơi chua và vài li Vốt-ka thơm phức. Mười giờ kém năm phút, gã ngừng uống và trả tiền nhanh chóng rồi quay lại khu lao động Việt Nam. Mười giờ đêm, dọc hành lang loáng thoáng đám công nhân đi ca ba và từ nhà máy hết ca 2 trở về. Gã uống hơi quá nên kéo cổ áo rét cao lên che mặt. Bỗng gã khựng lại nghe tiếng ai quen thế trong bóng tối ở góc cầu thang tầng trệt. Vợ gã? Giọng vợ gã? Những kẻ yêu nhau có thể thính hơn chó? Đúng là tiếng vợ gã, dù rất nhỏ trong góc cầu thang hẹp. Gã căng mắt ra nhìn. Trời ơi, vợ gã.
Cô ấy! Rõ ràng là vợ hắn đang ngửa mặt lên đón nhận nụ hôn của một người đàn ông áo lông khoác ngắn to xù màu xám.
Ngay khi đó tôi giận lắm. Mãi về sau này, sống lâu hơn ở Nga, tôi mới biết là cái việc tất nhiên đến, nó sẽ đến. Những người đàn bà ra đi xứ người kiếm ăn gửi tiền về cho chồng con, đa số đều phải gá vào ai đó mà sống, mà kiếm hàng, mà mua bán đổi chác lấy hàng hóa bán được giá ở Việt Nam gửi về nhà. "Lửa gần rơm lâu ngày cũng bén." Dù yêu chồng con thế nào đi nữa, thì tình yêu, một thực thể tinh thần, như một cơ thể sống, ở một vùng đất khác, thêm chất vi lượng khác, đã mọc chồi mới thay thế những ngày hôm qua và, ra hoa kết trái khác.
Tôi đã nện cho thằng cha ấy một cú trời giáng. Bất biết kẻ đó sống chết ra sao. Quay lại, tôi tóm nhanh lấy vợ tôi. Cô ấy lùi. Lùi sát vào góc cầu thang tối. Tôi bạt tai vợ mấy cái liền.
Thế là chấm dứt.
Tôi chạy lên gác như một thằng điên và thu xếp khăn gói, lao ra nhà ga về Mát rồi quay lại đội.
-Anh còn gặp lại chị ấy không?
-Không!
-Anh phũ phàng quá.
-Phũ phàng- Gã nhếch mép cười-Người đàn bà tôi yêu đã phản bội.  
Cô ta ích kỉ hay thời buổi khó khăn làm cô ấy không muốn có con? Tôi, hay là cô ta có lỗi? Cô ta hoàn toàn vô sinh, đã chán tôi, hay cuộc sống nơi xứ người này, trong hoàn cảnh đơn chiếc đã xô đẩy, buộc người đàn bà phải chọn lựa một lối sống khác. Sự chọn lựa là tìm tới ai đó, nhờ cậy, tựa vào một người đàn ông nào đó, để mưu sống, mà có hàng, có tiền gửi về nhà! Kinh tởm và đáng buồn quá! Sự toan tính, hoàn cảnh thúc ép như thế, tạo nên sự gá tạm, gắn kết bao nhiêu người đàn bà đã có chồng, có con, có gia đình yên ấm ở quê nhà vào một người đàn ông khác? Nhưng tại sao, những điều đó không xảy ra ở quê nhà như điều xảy ra với số đông đàn bà tại nơi đây. Thật đau đớn khi nhận ra một sự thật khi khá nhiều người đàn bà đều phản bội lại chồng con, khi họ ra xứ người? Tôi không hiểu nổi, tại sao ở trong nước, cũng có bao nhiêu mối quan hệ, có khi phải nương tựa vào người khác, mà người ta lại không dễ dàng phản bội gia đình như khi ra nước ngoài? Tôi không lý giải nổi. Có một nguyên nhân nào đó, đã đẩy chìm nghỉm những giá trị văn hoá, đạo đức, truyền thống bao nhiêu năm nay tan ra, rã nát...Không lí giải nổi, người ta càng đau khổ, rằn vặt và căm thù.- Gã cười gằn. Tiếng cười khô xác- Xem ra, cái thứ truyền thống ở đây bèo bọt thật, nhẹ bấc thật, chẳng còn giá trị cứt gì.
-Anh nói tiếp đi. Càng lí giải, xem ra anh càng phũ phàng hơn!- Quyên mạnh dạn nói.
Gã dướn người lên. Mắt buồn lắm. Gã nhìn thẳng vào đôi mắt cô, gằn giọng.
Tôi phũ phàng chó gì. Sự thật của tôi, của bao gia đình, hàng ngày chềnh ềnh trước mắt tôi. Từng ấy cô không đủ tin sao?
Tôi dấu kín sự đau khổ ấy suốt thời gian sau đó, lang bạt làm ăn, mang theo mối hờn căm như hòn đá tảng trong lòng, không bao giờ tan với nỗi khốn nạn vì nghèo, vì không có tiền và cũng chính vì tiền mà tôi đã mất cô ấy.
Khi ấy tôi chỉ có lòng căm thù. Không thể tha thứ! Tôi là người yêu vợ, thương vợ. Sau này, đôi khi nhớ lại, thấy buồn và thù ghét. Cũng không hẳn chỉ hoàn toàn căm thù cô ta. Bởi cũng đôi khi, tôi thoáng thấy có hai người trong cô ấy, một người vợ say đắm và nồng nàn, một con người phản bội, lừa dối. Vả lại, ngay khi tôi quay lại Mát thì Châu Âu biến động. Nước Đức thống nhất và bao điều xảy ra trong nước Nga bấy giờ. Hàng loạt đội Việt Nam tan rã. Tôi nghe nói, hình như nó, cùng thằng cha hôn vợ tôi đêm ấy, bây giờ tôi chẳng thèm nhớ mặt, biến vào xó xỉnh nào không rõ. Nước Nga mênh mông thực. Tan rã và phiêu bạt! Đấy là số kiếp dành cho chúng tôi.
Tôi không thể về đội cũ với tiền lương không bao giờ có cơ hội giầu có được. Phải có tiền! Tôi ở lại Mát và nhập vào đám "bộ đội"(1) Tôi làm đủ mọi nghề để sống. Bất kể việc gì, miễn là có tiền. Dăm tháng lang thang, khốn nạn lắm, tôi cũng có đồng ra đồng vào, gửi về ít tiền cho em trai và mẹ. Vài lần.  
Gã lại rít  thuốc. Cái bát mẻ đựng tàn đầy những đầu mẩu quăn chùn nom bẩn thỉu. Gã nhớ lại những ngày trôi nổi, khi tiền như nước chảy vào túi và lại ào ào mất đi. Gã nhớ tới cái bữa mồ hôi nhễ nhại "giải phóng" năm sáu xe hàng. Vừa quệt mồ hôi ngẩng lên thì bắt gặp khuôn mặt quen thuộc ngày nào. Người vợ của gã không hề biết, cái thằng bốc vác quần áo lấm lem, bẩn thỉu, ngồi hút thuốc giữa đống hàng ngồn ngộn kia lại là gã. Mùi nước hoa Chanel 5 bay quẩn theo gió thốc vào gã, cuốn theo bước chân một người đàn bà nom sang trọng, đi sóng đôi bên một đại gia chuyên đánh hàng xuyên lục địa giá trị hàng triệu USD, mà chính gã là kẻ làm thuê thảm hại cho họ...
Gã nhớ bữa rượu buồn thiu chẳng nói được lời nào, tràn ngập chán chường, ăm ắp cảm giác bị xúc phạm, nhục nhã...tới muốn tự tử về cuộc gặp trớ trêu này của gã. Hôm sau, người ta không thấy "thằng bốc vác có sức khỏe kinh hồn", có thể hất kiện hàng một tạ từ mặt đất lên vai một cách ngon lành nữa. Đấy là lý do gã lại trôi dạt, rồi tới tận biên giới Đức, và mạo hiểm xuất hiện tận nơi sơn thâm cùng cốc này, với tư cách như một đầu lĩnh phường thảo khấu, nắm giữ một đường dây xuyên biên giới, để kiếm thực nhiều tiền, thoát khỏi nỗi nhục, không chỉ là cơm áo.                                                       
                                                    *  *   * 
Buổi sớm hôm sau, gã dắng, sẽ đi vắng hai ngày. Nói vậy, nhưng nửa đêm gã về. Khi ăn cơm, gã nhẩn nha nói với Quyên rằng, cô không thể ở trong rừng được nữa! Gã sẽ đưa Quyên về thành phố. "Người ta không thể sinh nở trong rừng như bọn mọi rợ!" Gã tỏ ra khá hiểu biết khi nói với cô: "Đàn bà vượt cạn con so cực kì nguy hiểm." Gã nhìn đăm đăm vào mắt Quyên: "Tôi xin chịu trách nhiệm toàn bộ về những điều xảy ra với em. Xin hãy tin tôi!"
Tình huống không ngờ chuyển nhanh tới như vậy. Quyên sẽ thoát khỏi tay gã. Cô sắp được tự do! Cả ngày sau cô rơi vào trạng thái như người mộngdu. Vậy là điều cô mong chờ, mơ ước, khát khao đã tới. Cô chợt nảy ra ý nghĩ, tại sao cô không đi sang bên kia biên giới tìm chồng. Liệu anh ấy có tha thứ cho cái thai này không? Không, anh ấy sẽ hiểu và chấp nhận, một khi anh ấy biết là, chưa khi nào cô yêu gã, bố của cái thai nhi bất đắc dĩ. Cô phải đi tìm chồng! Cô không có một tình cảm với bất kì ai ngoài anh, ngoài chồng. Mọi sự đã xảy ra với cô chỉ là ác mộng.
Buổi tối, gã nằm bên cô, tay trái vòng qua ôm đầu Quyên cho cô gối, tay phải đặt nhẹ lên bụng Quyên, nơi có tiếng trái tim thứ ba đập trong ngôi nhà luôn tĩnh lặng. Gã thủ thỉ:
-Tôi yêu em. Yêu thật. Tôi thề! Cái thai này của tôi. Ngày còn ở Việt Nam, nghe người ta bảo, những người chồng ghé vào bụng vợ, nghe được tiếng tim con mình, sướng lắm. Ngày xưa tôi ao ước như vậy với chính con người đã phản bội tôi, mà chẳng bao giờ được nghe một tiếng thình thình, âm âm hạnh phúc. Bây giờ tôi biết hạnh phúc của người đàn ông là có thật. Tôi muốn em làm vợ tôi! Chúng ta phải làm lại từ đầu.
-Không- Quyên xoay người lại nhìn thẳng vào mắt gã- Tôi không đi đâu cả!
-Em không ở đây được. Đứa trẻ sẽ làm khai sinh. Nó phải được sinh ra ở bệnh viện chứ không phải xó rừng này. Nó cần có một người bố. Tôi sẽ cưới em, tôi là bố nó.
-Anh có yêu tôi thực không? Quyên nói.
Gã nhỏm dậy. Ánh mắt tha thiết, nhìn thẳng vào mắt Quyên, giọng run run: "Tôi yêu em. Yêu thật!"
-Anh hãy để tôi đi tìm chồng!
-Ai? Tìm ai? Gã nhỏm phắt dậy, mắt trợn lên trong đêm tối.
Quyên muốn khóc. Nhưng cô không nên khóc bây giờ. Cô phải nói thực với gã. "Sự chân thành cảm hóa được cả quỷ và thần", ngày nào khi còn ở Việt Nam, một nhà văn quen biết mẹ cô, đã từng có lần nói  như vậy. Cô tin điều đó. Con người này, gã, theo cô, hôm nay, trong đêm nay, không bị phần ác thú ngự trị.
-Anh hãy cho em sang Đức tìm chồng. Anh ấy rất yêu em. Chúng em yêu nhau đã hơn ba năm và khi xa nhau, tuần nào anh cũng điện về. Thậm chí hai, ba ngày một lần, có khi chỉ để nói một câu ngắn. Anh đừng nghĩ, anh ấy vì cái thai này mà không còn yêu em nữa. Không một người đàn ông chân chính nào lại sỉ nhục vợ mình, ruồng bỏ vợ, khi biết vợ mình bị cưỡng bức. Anh ấy học ở Nga, tiến sỹ, là trí thức. Anh hiểu không? 
Gã bần thần suy nghĩ, thao thức. Họ im lặng bên nhau tới hai tiếng. Gian nhà yên ắng tới lạ thường. Những ngọn gió cũng dường như không thổi nữa, những tiếng tru của bầy sói hoang cũng không vọng về, không gian chợt trở nên tĩnh lặng tới tuyệt đối như để con người ta có thể có cơ hội, điều kiện mà nhận rõ chính mình, nhận ra và thông cảm, chia xẻ với cả thế giới quanh họ, chứ không chỉ hai người trong gian phòng cô quạnh giữa rừng khuya đêm nay. 
Người đàn bà này thực có một tình yêu và niềm tin ghê gớm với chồng. Cái số kiếp mình chó chết quá đi thôi. Gã cảm thấy ghen với cái thằng cha vớ vẩn nào đó đã bước chân xuống cái phao trước, để vợ ở lại đi chuyến sau. Một người như vậy, liệu có tử tế thực không? Phải gã, không bao giờ gã cam chịu như vậy! Phải bằng mọi cách ở lại. Thế mà cô ta lại tin tưởng như tuyệt đối vào tình yêu của một kẻ như thằng ấy? Nhưng rõ ràng, người có thân xác tuyệt vời để gã đam mê này, có một lòng tin và tình yêu thật cao thượng và đẹp đẽ, không như vợ gã và cả chính gã. Trời ơi, cô ta không chỉ đẹp về mặt hình thức. Vẻ đẹp cả bên trong của cô, mà đêm nay gã nhận ra, thực sự làm gã vừa đau đớn vừa xúc động. Gã đã có lần nghe thấy, ở đâu đó, có ai nói: "Cái đẹp là cái làm người ta xúc động!" Gã ước ao, đời một kiếp đàn ông như gã, có một người đàn bà như Quyên! Như Quyên để lấy, để yêu và được yêu trọn vẹn. Suốt đời! Giam cầm cô ấy hơn tám tháng rồi, nhưng mãi mãi gã không thể chiếm đoạt được tâm hồn cô ấy, người đã có con với gã, con người tuyệt vời này! Không thể! Đau đớn thế! Gã biết...
Gã quàng tay nhẹ nhàng ôm lấy thân hình ấm nóng, mềm như nhung của Quyên. Nhẹ nhàng choàng tay ôm cái bụng đầy lên, mà trong đó có một sinh linh mang huyết thống của gã. Ừ, gã quyết định! Lần đầu tiên, sau bao nhiêu năm lưu lạc, đôi mắt ráo hoảnh, khô cạn như sa mạc bao nhiêu năm nay chợt ứa ra dòng lệ. Nước mắt trong vắt chảy bò vào miệng gã, mặn, đau đớn, tủi thân và cả biết bao thương yêu! Và, chỉ mình gã tự biết, vì sao gã khóc!                                                  
*   *   * 
Quyên và gã tới đường biên vào lúc gần sáng. Tuyết lất phất rơi, rồi rơi nhanh hơn, có lúc dầy đặc cản tầm nhìn suốt đêm. Theo gã, đây là thời cơ tốt nhất để vượt sang bên kia biên giới. "Người Đức rất kỉ luật, nhưng ai mà chống lại giấc ngủ vào thời điểm này được? Có cố căng mắt ra thì khả năng quan sát cũng kém đi! Đêm nay trời giúp ta." Gã ôm lấy vai Quyên, ghé sát vào cô, nói vậy.
Quyên lầm lũi bước theo gã. Gã luôn chờ cô, dáng điệu vẫn kiên quyết, dù đôi mắt thăm thẳm buồn. Ai chả buồn khi tiễn biệt! Quyên có buồn không?
Đêm qua, gần sáng, cô chợt nhớ lại tám tháng trời ăn ở tại khu rừng này. Một ngày còn có nghĩa nữa là... Cô vừa giận vừa thương gã. Đêm ấy, gã đã quyết định, đồng ý để cô đi tìm chồng. Rõ ràng gã đau khổ suốt hai ba ngày đêm, bởi gã không nói ra, nhưng đôi mắt khi còn biết yêu của gã không thể lừa dối, che dấu được Quyên. Quyên tin rằng, gã đã yêu cô thật lòng. Gã, người đàn ông đủ đen và trắng, khốn nạn lẫn tử tế. Gã, người bắt và hiếp cô, từng coi cô như vật nuôi. Rồi gã yêu cô và dù muốn sở hữu cô, sở hữu đứa trẻ, lại hứa sẽ tự thân dẫn cô qua biên giới để cô đi tìm chồng. Tại sao lại thế? Quyên không hiểu được. Quyên cũng thấy thoáng buồn, không cầm lòng được, khi chiều qua, gã mời cô dạo quanh căn nhà. Họ đạp trên những thảm lá khô ròn, xào xạc mà cơn gió đêm qua đã làm đám cây quanh nhà, trút hết những chiếc lá cuối cùng của mùa đông sót lại, xuống thảm rừng. Khi ấy, mặt đất như thể vừa được trải thảm dài, trong nắng chiều óng lên, như dát vàng rực rỡ, dưới từng bước chân của họ. Dường như cuộc dạo chơi đầu tiên và cuối cùng ấy, trong suốt tám tháng gã giam cầm cô ở nơi đây, là gã muốn cô nhớ lại chút ít thôi về gã. Quay lại cửa nhà, gã cầm tay cô, nhìn vào mắt cô đăm đăm không nói rất lâu, rồi bỗng quỳ sụp xuống chân cô và áp đầu vào sát bụng cô. Hình như gã âm thầm khóc. Quyên đứng yên phăng phắc. Cô cũng cảm nhận điều gì đang âm thầm chảy trong gã. Cô đưa tay lên, ôm lấy đầu gã. Bất giác, Quyên chợt thấy nhói đau. Đôi bàn tay mềm mại, nhỏ nhắn của cô tự nhiên vuốt nhẹ nhàng lên bộ tóc đen rậm và không dám cất lên lời. Bởi thực ra, mọi lời lẽ, nếu có cất lên khi ấy, cô tự thấy đều giả dối và vô nghĩa. Mà cô thì thuộc loại người không bao giờ muốn nói dối, dù chỉ là nửa lời.
Kế hoạch gã vạnh ra được thực hiện đúng tới từng chi tiết.
Đã vượt qua biên giới.
Đã tới ngôi nhà nhỏ lúc ba giờ sáng.
Ba giờ rưỡi, từ đó họ lên hai chiếc xe. Xe BMV có gã và Quyên đi đầu. Chiếc Open đi sau chở ba người khác. "Phải hòa vào dòng xe trên xa lộ, tiến về Berlin, vào thời điểm đông xe nhất!" Quyên chẳng thấy hồi hộp, xốn xang khi vượt  qua biên giới như ngày nào nữa. Cô chỉ có niềm mong mỏi duy nhất, sao cho hơn chục tiếng nữa trôi nhanh, cô sẽ tới Muenchen gặp chồng, cái trại tị nạn mà gã và đồng bọn, những kẻ giang hồ, thảo khấu có tai mắt ở khắp mọi nơi, biết chắc chắn rằng, chồng cô còn ở trại tị nạn trong đó. 
Họ chuẩn bị vượt lên xa lộ. Những rừng thông đen vun vút lùi về sau xe. Chiếc BMV đột ngột phanh gấp. Xe dừng lại trên một khúc quanh. Con thú đã đánh hơi thấy có con thú khác lớn hơn rình mình! Gã mím môi, yên lặng.
Chiếc xe Polizei, có vệt kẻ màu xanh biếc nằm ở bên đường đã nhìn thấy xe gã. Gã hiểu, nếu chiếc BMVquay lại, lập tức xe cảnh sát kia sẽ đuổi theo ngay. Xe nó là xe thửa. Mình có thể chạy nhanh chả kém nhưng còn cái Open, máy kém nó một chấm, chắc chắn bị tóm sống. Nghĩ đã.
Gã bình tĩnh xuống xe, mở nắp ca-po, như vẻ xem xét máy móc, rồi châm một điếu thuốc. Gã không nhìn Quyên, lạnh lùng nói: "Em cúi người xuống. Mở cửa xe bên phải và sang xe sau đi. Nhanh!" Quyên hành động như một cái máy theo lời gã. Cô hiểu, chiếc Open phía sau chưa bị phát hiện, bởi nó nằm trên đoạn cong khuất. Chiếc Open lập tức lùi sát vào lõm rừng ven đường khi cô đã ngồi gọn vào hàng ghế sau. Cô báo với người thanh niên lái chiếc xe thứ hai rằng, xe cảnh sát đang chờ phía trước. Vài phút sau, chiếc xe BMV bỗng vọt lên như tên bắn và vượt qua chiếc xe Polizei đứng chặn đường lên xa lộ... 
Nửa giờ sau nữa, chiếc Open chở Quyên đã hòa vào dòng xe cuồn cuộn trên xa lộ về hướng Berlin. Radio tự động bắt sóng ngắn liên tục, báo thông tin giao thông, làm bản nhạc đang nghe liên tục bị cắt đoạn. "Họ đang phát tin về chúng ta!" "Cái gì?" Quyên nhỏm người lên hỏi. Người lái trẻ giọng bình thản: "Anh Hùng bị rồi!". "Cái gì?" Quyên lại hỏi.
Mãi tới tám tiếng sau đó, trong một trạm xăng, khi họ ăn chiều, Quyên mới nhìn thấy tấm ảnh chiếc xe của gã bẹp dúm, nát nhừ trên tờ Tin chiều và nhờ người bạn trẻ của gã cầm lái chiếc Open dịch nội dung bài báo ngắn. Thì ra, người ta phát hiện và truy bắt chiếc ô tô "chạy trốn" với tốc độ hơn trăm năm chục cây số giờ. Chiếc xe gã cầm lái bị lật nhào, lăn tới hơn mười mấy vòng ở đoạn cua sát biên giới cây số X. Theo tin cảnh sát, đã cấp cứu một người đàn ông độ tuổi trên ba mươi, trong trạng thái bị thương nặng, hôn mê. Người ta dự đoán, người bị nạn, khi "chạy trốn" cảnh sát, là người Việt Nam. Cảnh sát đã tìm thấy giấy tờ có ghi tên anh ta: Nguyen Van Hung.
Quyên im lặng, cô cũng không thể khóc. Cô ngồi như hóa đá trên chiếc ghế. Bàn tay mềm mại trắng hồng của cô bóp vụn từng miếng bánh mì rồi thả xuống lòng đĩa ăn. Cô thả một mẩu bánh vào cốc sữa uống dở. Mẩu bánh nhỏ chìm xuống, nở rồi rữa dần ra. Cô bỗng thoắt nhớ lại tất cả hành trình của cô một năm qua. Nhớ đêm tại Mát với bao dự định, hy vọng của chồng cô, để cô tin vào mà nghe theo chồng, không quay về Việt Nam, tiến về phía Tây. Cô nhớ cái thùng xe tải đông lạnh mà cô và chồng đã nằm yên, nín thở, như cá ướp bên nhau, vượt qua biên giới hai nước. Cô nhớ mùi hăm khẳm từ chính cô, sau hơn một tuần không có nước rửa, trong tầng hầm ngôi nhà mà cô cũng chẳng biết đó là ở đâu trên bản đồ. Khuôn mặt của gã - Hùng hiện lên sau cùng, lẫn trong ngôi nhà gỗ, trên khu rừng cô đã bị giam cầm, từ mùa lạnh đầu năm tới khi chúng trút những chiếc lá màu vàng và sẫm đỏ như máu. Rồi câu chuyện của gã, câu chuyện của con người cô từng căm thù...Cô tưởng tượng ra gã nằm trong chiếc xe bẹp. Chiếc băng ca nhao tới, cáng khỏi xe một thân hình đẫm máu...
"Cầu cho anh tai qua nạn khỏi!" Cô thành tâm run rảy thốt lên lời ấy, dù rất nhỏ mà chỉ mình cô nghe thấy.
Mắt Quyên bấy giờ mới nhoà lệ.
Người lái xe trẻ để yên cho cô ở trạng thái như vậy. Những kẻ tha hương ở một khoảnh khắc nào đó, bỗng có những hành vi khó thể lí giải, theo những logich thông thường. Cậu ta quay sang, nắm lấy bàn tay Quyên: "Chị ơi!" 
Cái thai bỗng đụng cựa và đạp rất mạnh làm cô đau nhói. Quyên lấy giấy ăn lau mắt và nhìn ra qua cửa kính tiệm ăn trong suốt.
Khi ấy có ngọn gió từ đâu thốc về... Gió cuốn tung tóe bụi và cát, những chiếc lá khô vàng ươm bay chấp chới, tựa như rất nhiều cánh bướm hỗn loạn ... Vài giây sau, gió lặng dần và từ thăm thảm trên cao, tuyết bắt đầu lãng đãng rơi xuống, ngày một dầy hơn để mặt đất, con đường ngoài kia, trong mắt Quyên, bỗng phút chốc biến thành một dải khăn trắng muốt chạy dài miên man, vô tận...






 Đăng ngày 21/08/2008
Ý kiến về bài viết
  Gửi bởi: Cháu Bờm - 21/08/2008

Cám ơn bác đã đăng truyện này lên mạng cho mọi người cùng theo dõi. Cháu đã đọc hết phần 2 của truyện này ở một trang báo nào đó lâu rồi và tìm kiếm mãi (hy vọng được) để xem tiếp phần sau số phận của  Hùng, của Quyên ra sao. Theo cháu hiểu nếu để câu chuyện kết thúc ở đây cũng được nhưng sao mình vẫn cảm thấy chưa được thỏa mãn lắm, không biết cuộc đời họ sẽ ra sao. Đọc truyện cháu thêm thấu hiểu tình cảnh của những mảnh đời phiêu bạt nơi đất khách quê người trong đó có người chú của cháu. Chú là một du học sinh sang Đức từ những năm 80 tuy nhiên sau khi bức tường Berlin sụp đổ thì chú ở lại hẳn và bắt đầu mưu sinh bằng nghề làm dịch vụ điện thoại chui, bán thuốc lá, trái cây, bán hàng ...  Hồi đó thỉnh thoảng chú gửi quà về cho gia đình cháu khi thì mấy mét vải, khi thì vài chiếc áo cho chúng cháu và món quà to nhất là chiếc xe đạp Mipha. Có lẽ cho đến tận bây giờ khi đã đi làm cho công ty nước ngoài,  tiếp xúc và sử dụng nhiều món hàng ngoại nhưng cháu không thể nào quên được mùi thơm của chiếc áo hoa chú đã gửi cho cháu. Lúc đó một đứa trẻ con  như cháu chỉ biết hít hà và phổng cả mũi trước sự thèm thuồng đố kỵ của chúng bạn mà nào có biết rằng để có được nó chú phải vượt qua sự vất vả, nhọc nhằn và cả hiểm nguy nữa.
Cám ơn nhà văn Nguyễn Văn Thọ đã cho chúng ta thấy được mặt trái của cuộc sống nơi trời Tây, những số phận éo le của cuộc đời. 
Bác cho cháu hỏi truyện này có còn nữa không ạ ?  Hy vọng sau truyện này bác sẽ cho mọi người thưởng thức thêm những tác phẩm khác của nhà văn Nguyễn Văn Thọ. 
Một lần nữa xin cám ơn Bác và chúc Bác sức khỏe.


  Gửi bởi: Xuân Đức - 21/08/2008

Sao cháu lại viết li ti như kiến thế ? Về cuốn tiểu thuyết Quyên, theo tác giả cho biết có 9 chương. 2 chương vừa rôi đã đăng trên báo Văn Nghệ. Thời gian tới, trên trang web này sẽ giới thiệu hết, cháu nhớ xem nhé .

  Gửi bởi: Nguyễn Văn Thọ - 22/08/2008

Gửi cháu Bờm và kính các bác,
@Cháu Bờm. Chú vừa đọc Comen của cháu. Ba giờ đêm, đoạn cháu viết về chú cháu về những cảm nhận xa xăm trẻ thơ và hôm nay làm chú nhớ lại chính cuộc sống của các chú và ứa nước mắt. Quả thực như cháu nói, người lao động xuất khẩu - ở Đức gọi là Thợ khách-rất vất vả thậm chí có việc đầy phiêu lưu mới có thể có tiền, hàng gửi về quê nhà cho vợ, chồng, con cái và gia đình v.v...Thợ khách mới sang ko có kinh nghiệm, nhiều người cứ tiết kiệm, ko mua guầy ấm mùa đông để chân lạnh, tức thận lạnh. Nhiều năm khối bạn chú bị bệnh, nhẹ thì rối loạn thần kinh thực vậtđau toàn thân , nhất là lưng, vai. Nặng thì suy thận, chết thân gửi bình gốm một chút tro về quê hương. Nhưng điều ấy ko dau đớn âm ủ kéo dài hafngbao năm, ở một bộ phậm trí thức, ki ra xứ người thấy tủi hổ, nhục nhã, ko chỉ là cơm áo gạo tiền. Khi ấy âm thầm nhìn về tổ quốc mà chẳng thể nói cùng ai, giữa bốn bề trắng toát.
Sự thúc ép ấy buộc chú cầm lại bút. Bởi vì, tuy không muốn là nhà văn, nhưng chú không vô cảm trước là chính với tâm sự trong mình, sau là với bao đồng bào quanh chú. Chú thường nghì như nhân vật Hùng. Nếu chúng ta thoát khỏi ba bốn cuojc chiến, neesuchusg ta mạnh, có lẽ các chú không phải đi bán sức lao động khắp thế giới. Mà có đi với tư cách chuyên gia xông xênh hãnh diện như người Nhật, người Ấn, thậm chí người Hàn.
Cuộc ra đi tới hôm nay của tám vạn  Thợ khách, để lại hơn hai vạn gia đình bây giờ đang sống tại Đức còn bao hệ lụy...Nhiều người muốn về mà qua sông mắc núi trở lại sông. Đa phần dù có thể vào Q. tịch Đức nhưng họ vẫn giừ nguyên Quốc tịch Việt. Có ra xứ người, sống càng lâu, càng già nỗi buồn thăm thẳm và khao khát ghê gớm cho quê hương. Ở Đức hiện nay có nhiều hội đoàn cụm nhau lại, dù tự phát, để gắn kết họ, an ủi dộng viên nhau và đóng góp ít nhiều cho quê nhà. Những ý thức khỏi phát như thế đang dần một lớn lên chống lại sự manh mún, chia rẽ, ích kỉ...đầy tính đồng hương, đồng cảnh cùng hội cùng thuyền, mà chưa thành sức mạnh Một Dân Tộc. Tỉ như Tầu, Do Thái, Thổ, thậm chí nhược tiểu như Sri Lanka họ vẫn mạnh hơn chúng ta? Vì sao?
Chính thế hệ các cháu, cũng như con gái chú bên Đức phải giải quyêt vấn đề này! Nó làm chúng ta yếu đi, ngay cả trong nước. Ngya cả nhiều bộ phận kiều dân Việt không riêng gì Đức mà ở Nga,Mỹ ...đâu đâu cũng thế.
Cháu hãy suy nghĩ về việc này nhé.
Thoe chú nhìn rõ ra thế giới không phải việc quá khó. Nhìn rò đúng ưu và khuyết của cả dân tộc là một việc cần phải suy nghì để bứt lên.
 Chú có thêm một bạn đọc  như Thằng Bờm chú vui và thấy hạnh phúc. Cám ơn cháu. Chú thật.
@kính các bác TST.
Các bác động viên, khen làm em vừa vui vừa sợ. Sợ sau 65 tuổi không còn Muối mà cho văn nó không nhạt. Nay em vừa tròn 60. Em còn 5 năm nữa lao động để có gặp nhau duyên hạnh, tay bắt mặt cười.
Xin đa tạ nơi hiếu khách bắt đầu từ bác Xuân Đức tới các bô lão, các cụ, các bác các em và cháu...ở Làng Văn nho nhỏ này.
Kính thư

Nhận xét

Chia sẻ cho bạn bè

Bài viết liên quan