Saturday, October 17, 2015

Sức sống mãnh liệt của lục bát

Tác giả: Chu Văn Sơn

xuanduc.vn : Báo toquoc.vn vừa tổ chức cuộc bình chọn 99 bài thơ lục bát tiêu biểu của thế kỉ. Đây là một hình thức tôn vinh thi ca dân tộc rất đọc đáo và thú vị. Đã có 29 bài được giới thiệu trong đêm Hội Lục bát...
Xin giới thiệu bài viết như là một đề dẫn văn chương của nhà thơ Chu Văn Sơn và 29 bài thơ lục bát được chọn
Sức sống mãnh liệt của lục bát
Nếu chọn loài cây Việt tiêu biểu nhất, đó hẳn phải là cây tre. Nếu chọn loài hoa Việt tiêu biểu nhất, đó hẳn là hoa sen. Nếu chọn trang phục Việt tiêu biểu nhất, đó hẳn là chiếc áo dài. Nếu chọn nhạc khí Việt tiêu biểu nhất, đó hẳn là cây đàn bầu... Cũng như thế, nếu chọn trong nền thơ ca phong phú của ta một thể thơ làm đại diện dự cuộc giao lưu thơ toàn cầu, hẳn đó phải là Lục bát. Người Âu Tây tự hào về thể Sonnê, người Trung Quốc tự hào về thơ Đường luật, người Nhật Bản tự hào về thơ Haiku..., thì người Việt Nam có quyền tự hào về thể Lục bát. Lục bát là niềm kiêu hãnh của thơ Việt. Nếu tâm hồn một dân tộc thường gửi trọn vào thi ca của dân tộc mình, thì lục bát là thể thơ mà phần hồn của dân Việt đã nương náu ở đó nhiều nhất, sâu nhất. Có thể nói, người Việt sống trong bầu thi quyển lục bát. Dân ta nói vần nói vè chủ yếu bằng lục bát. Dân ta đối đáp giao duyên, than thân trách phận, tranh đấu tuyên truyền chủ yếu bằng lục bát. Và dân ta hát ru các thế hệ, truyền nguồn sữa tinh thần của giống nòi cho lớp lớp cháu con cũng chủ yếu bằng lục bát... Lục bát là phương tiện phổ dụng để người Việt giải toả tâm sự, kí thác tâm trạng, thăng hoa tâm hồn. Gắn với tiếng Việt, gắn với hồn Việt, thơ lục bát đã thuộc về bản sắc dân tộc này.
   *** 
          Lục bát có tự bao giờ? Người ta đã cố gắng tìm câu trả lời. Nhưng mọi trả lời đến nay vẫn chỉ là giả thuyết. Bởi cách sinh tồn của lục bát xa xưa là sống trong trí nhớ, sống qua đường truyền miệng của bao thế hệ người Việt, ít khi nằm im lìm trên trang giấy, nên tìm kiếm văn bản lục bát đầu tiên, kể cả dạng manh nha, dạng tiền thân của thể loại, để xác định niên đại của nó là việc thiên nan vạn nan. Tuy nhiên, cội nguồn bao giờ cũng là mối băn khoăn khôn cầm của nhân gian. Cội nguồn của lục bát cũng thế. Nó vẫn luôn là một bí mật đầy hấp dẫn, luôn mời gọi những cuộc khám phá đầy phiêu lưu của các nhà thi học, đặc biệt là "lục bát học". Chắc chắn sẽ còn nhiều cuộc lội ngược về ngọn nguồn của tiếng Việt, lội ngược về cái vùng được xem là tiền sử của văn học và thơ ca Việt để mà khảo sát, tìm kiếm, lục lọi, để truy tìm bằng được khởi thuỷ của thể loại này. Mà cuộc tìm kiếm như thế, lắm khi, cũng oái oăm như cái điều mà một câu lục bát đã nói đến: Đem vàng đi đổ sông Ngô / Đêm nằm tơ tưởng đi mò sông Tương. Khởi thuỷ sớm hay muộn còn chưa có gì thật chắc, nhưng một điều có thể đoan chắc: lục bát là đứa con cưng của tiếng Việt, tiếng Việt đã nuôi lớn lục bát, đồng thời, chính lục bát cũng góp mình làm cho tiếng Việt hay hơn, đẹp hơn.   ***            Chỉ có hai câu, mười bốn tiếng, mà một cặp lục bát tiềm tàng những khả năng biểu hiện vô tận. Nó luôn dư sức trần thuật: Đêm qua tát nước đầu đình / Bỏ quên chiếc áo trên cành hoa sen (Ca dao), Này chồng này mẹ này cha / Này là em ruột này là em dâu (Nguyễn Du), Đang trưa ăn mày vào chùa / Sư ra cho một lá bùa rồi đi / Lá bùa chẳng biết làm gì / Ăn mày nhét túi lại đi ăn mày (Đồng Đức Bốn)... Nó vô cùng dồi dào năng lực trữ tình: Ai ơi bưng bát cơm đầy / Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần (Ca dao), Nghe đi rời rạc trong hồn /Những chân xa vắng dặm mòn lẻ loi (Huy Cận), Rồi lên ta uống với nhau / Rót đau lòng ấy vào đau lòng này (Trần Huyền Trân), Ngày qua ngày lại qua ngày / Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng (Nguyễn Bính), Mái gianh ơi hỡi mái gianh / Ngấm bao mưa nắng mà thành quê hương (Trần Đăng Khoa)... Nó dôi dả năng lực triết luận: Trăm năm trong cõi người ta / Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau, Có tài mà cậy chi tài / Chữ tài liền với chữ tai một vần (Nguyễn Du), Xin chào nhau giữa con đường / Mùa xuân phía trước miên trường phía sau, Hỏi tên rằng biển xanh dâu / Hỏi quê rằng mộng ban đầu đã xa (Bùi Giáng), Mẹ ru cái lẽ ở đời / Sữa nuôi phần xác, hát nuôi phần hồn,Ta đi trọn kiếp con người / Cũng không đi hết mấy lời mẹ ru, Có gì lạ quá đi thôi / Khi gần thì mất xa xôi lại còn (Nguyễn Duy)... Nó đáp ứng mọi yêu cầu trào tiếu: Một rằng thương hai rằng thương / Có bốn chân giường gãy một còn ba (Ca dao), Anh đi công tác Plây / Ku dài dằng dặc biết ngày nào ra (Ca dao mới),Thương đùng đùng nhớ đùng đùng / Yêu nhau quẫy nát một vùng chiếu chăn (Võ Thanh An),Ối giời ơi nõn nà chưa / Bột trinh bạch đấy giời vừa rây xongỄnh ềnh ệch hõn hòn hon thùi lùi (Nguyễn Duy)... Chỉ có hai câu, 14 tiếng, với áp lực lớn về tính chẵn của tiết tấu, mà nhịp lục bát vẫn biến hoá vô chừng. Nó có thể dàn đều nhịp: Năm năm tháng tháng ngày ngày / Lần lần lữa lữa rày rày mai mai (Ca dao), Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều / Chày đêm nện cối đều đều suối xa(Tố Hữu)...Nó có thể co kéo những trùng điệp, tạo nên nhịp dích dắc: Còn tình yêu của đôi ta / Đến đây là đến đây là là thôi (Nguyễn Bính)... Nó có thể đăng đối nhịp: Người lên ngựa kẻ chia bàoNửa in gối chiếc nửa soi dặm trường(Nguyễn Du),Nhớ canh rau muống nhớ cà dầm tương (Á Nam Trần Tuấn Khải)... Nó có thể đảo nhịp: Cái gì như thể nhớ mong /Nhớ nàng, không, quyết là không nhớ nàng(Nguyễn Bính),Thác, bao nhiêu thác cũng qua / Thênh thênh là chiếc thuyền ta trên đời (Tố Hữu), Em đi để lại chuỗi cười/ Trong tôi vỡ... một khoảng trời pha lê (Phạm Công Trứ),Được lúa, lúa đã gặt bông / Được cải, cải đã chặt ngồng muối dưa (Đoàn Thị Lam Luyến)... Nó có thể tràn nhịp: Làng ta lại lóp ngóp làng /Lòng ta lại ếch nhái hoang cả lòng(Nguyễn Duy), Con xin ngắn lại đường gần / Một lần rồi mẹ hãy dần dần đi (Trúc Thông)...  Nó có thể vắt hàng: Trời cao xanh ngắt. Ô kìa /Hai con hạc trắng bay về Bồng Lai (Thế Lữ)... Chỉ có 14 tiếng, với hai câu chật chội, mà lục bát vẫn có cách dùng chữ với những chùm đôi, chùm ba, thậm chí, vẫn gói ghém được cả những chùm bốn cồng kềnh, khiến lời thơ uyển chuyển co giãn phóng túng đến lạ lùng: Nắng thoai thoải nắng chiều lưng lửng chiều (Nguyễn Bính),Sạch sành sanh vét cho đầy túi tham (Nguyễn Du),Ở đây có những người con / Mang theo cái nõn nòn non lên ngànNgấp nga ngấp ngoáng kêu ma / Hóa ra ta gặp bóng ta trên tường(Nguyễn Duy)... Chỉ có 14 tiếng, với đắp đổi bằng trắc khắt khe, dễ sa vào đơn điệu, thế mà trên thực tế, lục bát vẫn có những cách dàn xếp bằng trắc vần vèo thú vị và hấp dẫn:Vó câu khấp khểnh bánh xe gập ghềnh (Nguyễn Du), Ngã ba ngã bảy về đâu / Cái ngáng làm cớ cho nhau chuyện trò(Hữu Thỉnh), Đến đây gió cũng đi vòng / ngoằn theo khoeo núi ngoèo trong khuỷu rừng (Nguyễn Duy)... Thường, mỗi cặp lục bát là một khúc thức chỉ tải vừa một giọng, ví như giọng ngợi ca: Nhớ Ông cụ mắt sáng ngời / Áo nâu túi vải đẹp tươi lạ thường (Tố Hữu)... Nhưng, cũng trong phạm vi chật hẹp của một khúc thức thế thôi, mà lục bát vẫn có thể chuyển làn qua hai giọng mau lẹ, tạo hiệu ứng trào phúng kì thú: Bác Thành có chiếc quần nâu / Bác rất giản dị bạ đâu cũng ngồi, Hoan hô đồng chí Hà Đăng / Ấn vào tàu chạy băng băng như rùa (ca dao mới)... Và, khi cần thiết, lục bát vẫn có thể xé cả mình ra, đảo vần, ngắt hàng, biến thể, phá thể, thậm chí, tăng vọt số chữ, thế mà vẫn... cứ là lục bát:Yêu nhau tam tứ núi cũng trèo / Thất bát sông cũng lội, tứ cửu tam thập lục đèo cũng qua" (ca dao)... Tiềm năng hình thức của lục bát là vô cùng. Làm sao có thể khai thác hết !  ***            Từ xưa đến nay, lục bát vẫn sóng bước hai phong cách: dân gian và cổ điển. Không thể nói đằng nào hơn đằng nào kém. Đó là hai vẻ đẹp lục bát. Cả hai song hành, chuyển hoá và bổ sung cho nhau. Về tổ chức lời thơ, lục bát cổ điển theo điệu ngâm (coi trọng tính uyên súc của ý, cú pháp của văn viết, chất liệu ngôn từ nghiêng hẳn về thực từ), còn lục bát dân gian theo điệu nói (coi trọng việc biểu hiện xúc cảm trực tiếp, cú pháp của văn nói, ngôn từ với phổ rộng gồm thực từ và thoả mái hư từ, thậm chí, hết sức ưa dùng khẩu ngữ). Cùng viết về một cảnh tương tự nhau, cùng bộc lộ những cung bậc cảm xúc gần gũi nhau, nhưng cặp lục bát này: Buồn trông cửa bể chiều hôm / Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa  là điệu ngâm - thật uyên súc bởi được nén chặt toàn những thực từ, còn cặp này: Anh đi đó, anh về đâu ? / Cánh buồm nâu, cánh buồm nâu, cánh buồm rõ ràng là điệu nói - cứ như buột miệng nói chơi chơi, lỏng là lỏng lẻo, thế mà đâu có chịu nhường phần súc tích cho ai! Mỗi cặp là một vẻ đẹp riêng, không thể nào đánh đổi, mỗi cặp là con đẻ của một phong cách lục bát đó. Nếu thành tựu nổi bật nhất của lục bát dân gian là ca dao, thì lục bát cổ điển được viết bởi những cây bút bác học và kết tinh chói ngời là Truyện Kiều của Nguyễn Du.   Những giai đoạn sau, trong bước phát triển nào của thơ, người ta cũng luôn thấy sóng đôi hai phong cách này. Ví như đầu thời Thơ mới, là cặp Tản Đà và Á Nam Trần Tuấn Khải, đằng nghiêng về cổ điển, đằng nghiêng về dân gian. Giữa thời Thơ mới là cặp Nguyễn Bính - đượm chất dân gian và Huy Cận - đậm màu cổ điển... Đến thời sau này thì hai phong cách ấy thường hoà vào nhau, mà chất dân gian thường trội hơn, đồng hoá cả chất cổ điển. Nổi lên nhiều cây bút sáng giá: Tố Hữu, Bùi Giáng, Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn, Trần Đăng Khoa, Lê Đình Cánh, Phạm Công Trứ... Cứ thế, qua các thời, lục bát luôn như một dòng sông, mà các dòng chảy của nó cứ sóng sánh và quyện hoà để làm giàu cho nhau, làm nên cái diện mạo bền bỉ mà luôn mới mẻ của lục bát.   ***   Trong thời buổi hội nhập, toàn cầu hoá hiện nay, dường như đang có hai thái độ trái ngược đối với lục bát. Lắm kẻ thờ ơ, hoài nghi khả năng của lục bát. Họ thành kiến rằng lục bát là thể thơ quá gò bó về vần luật, về thanh luật, về tiết tấu; nó đơn điệu, nó bằng phẳng, quê mùa. Họ vội cho rằng lục bát chỉ biểu hiện được những cảm xúc quen thuộc của người Việt truyền thống. Còn tâm sự đầy những suy cảm tinh vi phức tạp của người hiện đại thì lục bát khó chuyển tải. Họ lầm tưởng rằng lục bát sẽ khó theo kịp nhịp biến hoá đầy bấn loạn của tư duy thơ hiện đại. Thậm chí, có người còn coi lục bát như một rào cản đối với những lối tư duy nghệ thuật tân kì. Và, họ từ chối lục bát để một mực chạy theo những thể khác. Thực ra, mọi vẻ đẹp cùng bíến thái mơ hồ nhất của thiên nhiên, mọi biến động phức tạp khôn lường của đời sống, mọi tầng sống sâu xa huyền diệu nhất của tinh thần cá thể, mọi khuynh hướng tư duy nghệ thuật, dù truyền thống hay tối tân, đều không xa lạ với lục bát. Vấn đề là người viết có đủ tài để làm chủ được lục bát hay không. Vì thế mà có xu hướng ngược lại, nhiều người đã nhận thấy ở lục bát những ưu thế không thể thơ nào có được. Họ đã tìm về lục bát. Họ ý thức rõ, từ xưa đến nay, lục bát luôn là thể thơ đầy thách thức. Sự gò bó có thể là một khó khăn bất khả vượt đối với ai đó, nhưng lại là một thách thức đầy hấp dẫn đối với những tài năng thơ thiết tha với tiếng Việt, thiết tha với điệu tâm hồn Việt. Họ nâng niu, chăm chút. Họ làm mới, họ cách tân, để gửi gắm tấc lòng của con người hôm nay vào thể thơ hương hoả của cha ông. Họ dùng lục bát như một phương tiện tâm tình gần gũi, để nói những gì sâu sắc nhất của tâm tư. Trong thực tế, lục bát với người này là sở trường, với người kia là sở đoản. Nhưng, về thái độ, thì sẽ là không quá lời khi bảo rằng: trân trọng lục bát cũng là một thước đo về văn hoá thơ với một người thơ Việt. Nhờ những tấm lòng và tài năng ấy mà thế kỉ XX vẫn chứng kiến một cuộc chạy tiếp sức hào hứng không biết đến mệt mỏi của lục bát. Đọc thơ lục bát thế kỉ qua, có thể thấy rõ rệt, càng về sau, dáng điệu lục bát càng trẻ trung, hơi thở lục bát càng hiện đại hơn so với hồi đầu. Điều đó là bằng chứng khẳng định lục bát vẫn trường tồn, lục bát vẫn gắn bó máu thịt với tâm hồn Việt trên con đường hiện đại.   Chừng nào tre còn xanh, sen còn ngát, chừng nào tà áo dài còn tha thướt, tiếng đàn bầu còn ngân nga, chừng ấy những điệu lục bát vẫn tiếp tục sinh sôi trên xứ sở này. Lục bát mãi mãi là một tài sản thiêng liêng của nền văn hoá Việt.   Chừng nào thế giới còn chưa thấu tỏ vẻ đẹp của lục bát, chừng ấy họ chưa thực sự hiểu vẻ đẹp của thơ Việt. Và, chừng nào ta còn chưa làm cho thế giới tiếp nhận được vẻ đẹp của lục bát, chừng ấy nền thơ Việt vẫn còn chưa thực sự làm tròn sứ mạng của mình.   Văn Chỉ, Thu Mậu Tý CVS
Chân quê   Nguyễn Bính
  Hôm qua em đi tỉnh về
Đợi em ở mãi con đê đầu làng
Khăn nhung quần lĩnh rộn ràng
Áo cài khuy bấm, em làm khổ tôi
Nào đâu cái yếm lụa sồi?
Cái dây lưng đũi nhuộm hồi sang xuân?
Nào đâu cái áo tứ thân?
Cái khăn mỏ quạ, cái quần nái đen?
Nói ra sợ mất lòng em
Van em, em hãy giữ nguyên quê mùa
Như hôm em đi lễ chùa
Cứ ăn mặc thế cho vừa lòng anh.
Hoa chanh nở giữa vườn chanh
Thầy u mình với chúng mình chân quê
Hôm qua em đi tỉnh về
Hương đồng gió nội bay đi ít nhiều (1936)
  * * * 
Vào chùa               Đồng Đức Bốn   
Đang trưa ăn mày vào chùa
Sư ra cho một lá bùa rồi đi
Lá bùa chẳng biết làm gì
Ăn mày nhét túi lại đi ăn mày.  
 * * *
  Một mai  Hoàng Nhuận Cầm 
Một mai chết thật âm thầm
Mấy cành cỏ dại khẽ trầm ngâm ru
Một mai chết hết hận thù
Mắt chầm chậm khép, tay từ từ xuôi
Một mai chết thật buồn cười
Tóc tôi buông xuống như người ngủ mơ
Một mai chết thật tình cờ
Thuốc trên tay khói vẫn dờ dật bay...
Một mai chết thật hao gầy
Xanh xao quần áo tháng ngày thủy tinh
Một mai chết hết tội tình
Một mình mình hát, một mình mình nghe
Một mai đi chẳng trở về
Rượu buồn đổ đắng vỉa hè buồn thiu

Một mai chết thật đìu hiu
Má  lằng lặng tái, môi dìu dịu say
Một mai ngủ lá phủ đầy
Miền tâm tư vỡ tháng ngày thật xa
Một mai nằm xuống bao la
Buồn ơi, chào nhé! Khóc òa vầng trăng.

Một mai chết thật ăn năn
Tôi nằm xuống đất không cần thở than!
* * * 
Buồn đêm mưa  
    Huy Cận 
Đêm mưa làm nhớ không gian
Lòng run thêm lạnh nỗi hàn bao la...

Tai nương nước giọt mái nhà
Nghe trời nằng nặng, nghe ta buồn buồn

Nghe đi rời rạc trong hồn
Những chân xa vắng dặm mòn lẻ loi...

Rơi rơi... dìu dịu rơi rơi
Trăm muôn giọt nhẹ nối lời vu vơ...

Tương tư hướng lạc phương mờ...
Trở nghiêng gối nặng hững hờ nằm nghe

Gió về, lòng rộng không che
Hơi may hiu hắt bốn bề tâm tư
* * *  
 Chồng chị, chồng em  
         Đoàn Thị Lam Luyến 
Xưa thì chị. Nay thì em
Phải duyên chồng vợ, nối thêm cho dài...
Ngỡ ngàng nặng cả đôi vai
Những cao như núi, những dài như sông
Được lúa, lúa đã gặt bông
Được cải, cải đã chặt ngồng muối dưa
Mặn mà cũng khác ngày xưa
Bâng khuâng... như chửa bao giờ bén duyên

Gần được ấm, xa được êm
Dẫm vào ruộng hoá, vụt nên mùa màng
Cái giần vục phải cái sàng
Xui cho hai đứa nhỡ nhàng gặp nhau .
Lá bùa từ thuở Mỵ Châu
Lá bài Trọng Thuỷ còn đau đến giờ!
Tình yêu một mất, nghìn ngờ
Khiến cho biển cứ khuất bờ trong nhau.  

Cái phận trước, cái duyên sau
Nào ai tính được dài lâu với trời ?
Khi vui, muốn có một người
Khi buồn muốn cả đất trời sẻ chung.
Đã từ hai mảnh tay không
Kể chi mẹ ghẻ, con chung, chồng người?
Dở dang suốt nửa cuộc đời
Bỗng dưng mọc một mặt trời trong nhau!
 Chị thản nhiên mối tình đầu
Thản nhiên em nhận bã trầu về têm.
Hà Nội 10-13.01.1990  
* * * 
 Mẹ ra Hà Nội  
Lê Đình Cánh 
Mẹ ra Hà Nội thăm con
Vừa trên tàu xuống chân còn run run
Áo nâu còn thẫm mưa phùn
Còn hoai vị cỏ sực bùn lúa non...
Sang đường tay níu áo con
Ngã tư hối hả xe bon ngược chiều  
Khoác vai mẹ, chiếc đẫy nghèo
Năm xưa thắt lại bao điều đắng cay:
Đưa em trốn ngục những ngày
Vài lưng gạo hẩm thăm thầy trong lao
Đã từng mở giữa trời sao
Nắm cơm tiếp vận tay trao giữa đèo
Củ khoai bẻ nửa nắng chiều
Bờ mương thoai thoải dài theo công trường
Đưa con đánh Mĩ lên đường
Nắm cơm mẹ gói tình thương quê nhà.
Bà ra bế cháu của bà
Những mong cùng ước lòng già hôm mai
Lên thang chẳng dám bước dài
Vào khu tập thể gặp ai cũng chào!  
Lời ru bà thuộc thủa nào
Qua bom đạn vẫn ngọt ngào nắng trưa
Để hồn cháu có núi Nưa
Tiếng cồng Bà Triệu năm xưa vọng về
Lam Sơn rừng núi ba bề
Lũng Nhai vang mãi lời thề nước non
Trải bao sông cạn đá mòn
Còn con còn cháu thì còn cha ông
Để hồn cháu có dòng sông
Câu hò trên ngã Ba Bông sum vầ
Sào tre đêm gõ nhịp gầy
Ba khoang đò dọc chở đầy ước mong...
Mới xa đã nhớ ruộng đồng
Thương con mà chẳng đành lòng
Run run mẹ bước lên tàu
Vị bùn vẫn thoảng áo nâu quê nhà.
 * * *
    Cát đợi  
Nguyễn Việt Chiến 
Cát chiều bay sẫm bến sông
Thương con đò ngược mùa đông chưa về
Lối mòn bạc cỏ may đê
Chiều mòn rỗng tiếng chim gì kêu đau
Sóng đêm tự bến sông nào
Theo trăng về thức dưới màu mây xưa  
Tôi hoang vu, cát hoang vu
Trăng là người khách qua đò đêm nay
Cô đơn xuống một đò đầy
Tôi chờ em phía bên này mùa đông
Cát còn bay trắng bến sông
Người còn đi trắng mùa mong ước này  
Tôi cầm hạt cát trên tay
Đêm không còn ấm như ngày có em
Tôi cầm cả chính tôi lên
Câu thơ nhặt được phía miền quạnh hiu
Câu thơ như cát mỗi chiều
Đem theo chút ấm nắng nghèo vào đêm
Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa                  Nguyễn Duy 
 Bần thần hương huệ thơm đêm
Khói nhang vẽ nẻo đường lên niết bàn
Chân nhang lấm láp tro tàn
Xăm xăm bóng mẹ trần gian thuở nào
Mẹ ta không có yếm đào
Nón mê thay nón quai thao đội đầu
Rối ren tay bí tay bầu
Váy nhuộm bùn áo nhuộm nâu bốn mùa  
Cái cò... sung chát đào chua
Câu ca mẹ hát gió đưa về trời
Ta đi trọn kiếp con người
Cũng không đi hết mấy lời mẹ ru  
Bao giờ cho tới mùa thu
Trái hồng trái bưởi đánh đu giữa rằm
Bao giờ cho tới tháng năm
Mẹ ra trải chiếu ta nằm đếm sao  
Ngân hà chảy ngược lên cao
Quạt mo vỗ khúc nghêu ngao thằng Bờm...
Bờ ao đom đóm chập chờn
Trong leo lẻo những vui buồn xa xôi  
Mẹ ru cái lẽ ở đời
Sữa nuôi phần xác hát nuôi phần hồn
Bà ru mẹ... Mẹ ru con
Liệu mai sau các con còn nhớ chăng  
Nhìn về quê mẹ xa xăm
Lòng ta-chỗ ướt mẹ nằm đêm mưa
Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa
Miệng nhai cơm búng lưỡi lừa cá xương
 * * *
   Thề non nước  
          Tản Đà 
Nước non nặng một lời thề
Nước đi, đi mãi không về cùng non.
Nhớ lời nguyện nước thề non,
Nước đi chưa lại, non còn đứng không.
Non cao những ngóng cùng trông,
Suối khô dòng lệ chờ mong tháng ngày.
Xương mai một nắm hao gầy,
Tóc mây một mái đã đầy tuyết sương.
Trời Tây ngả bóng tà dương
Càng phơi vẻ ngọc nét vàng phôi pha.
Non cao tuổi vẫn chưa già,
Non thời nhớ nước, nước mà quên non!
Dù cho sông cạn đá mòn,
Còn non còn nước hãy còn thề xưa! -
Non cao đã biết hay chưa:
Nước đi ra bể lại mưa về nguồn.
Nước non hội ngộ còn luôn,
Bảo cho non chớ có buồn làm chi!
Nước kia dù hãy còn đi,
Ngàn dâu xanh tốt non thì cứ vui.
Nghìn năm giao ước kết đôi
Non non nước nước không nguôi lời thề.
(1920)
  * * * 
 Ví dầu 
  
 Phạm Đức 
Ví dầu ngọn lửa hắt hiu
Thì anh nhen nhúm, lựa chiều gió mưa
Thì anh đóm mỏng, củi khô
Thì anh gượng nhẹ đợi chờ lửa lan  
Ví dầu ngọn lửa lụi tàn
Thì anh gom góp chút than cuối cùng
Thì anh chiu chắt đốm hồng
Tìm trang viết, nhóm bập bùng say mê  
Ví dầu than lụi, trời khuya
Nhạt thênh tro bụi, não nề nhân duyên
Thì anh nhặt giữa lãng quên
Những than đen của lửa thiêng năm nào
Ví dầu thế nảo, thế nào
Vẫn tin còn lửa rì rào trong than...
* * *
  Mắt buồn 
  
 Bùi Giáng 
 Dặm khuya ngất tạnh mù khơi (Nguyễn Du)
 Bóng mây trời cũ hao mòn
Chiêm bao náo động riêng còn hai tay
Tấm thân với mảnh hình hài
Tấm thân thể với canh dài bão giông
Cá khe nước cõng lên đồng
Ruộng hoang mang khóc đêm mồng một giêng
Tạ từ tháng chạp quay nghiêng
Âm trang sử lịch thu triền miên trôi
Bỏ trăng gió lại cho đời
Bỏ ngang ngửa sóng giữa lời hẹn hoa
Bỏ người yêu bỏ bóng ma
Bỏ hính hài của tiên nga trên trời
Bây giờ riêng đối diện tôi
Còn hai con mắt khóc người một con.
* * * 
 Bút đào huyệt giấy mà chôn mình dần  
                Trần Mạnh Hảo 
 Cái thời Nguyễn Bính nguồn cơn
Vẫn đôi bướm ấy đến vờn mùng tơi
Mượn mưa phùn xỉa tăm chơi
Nửa đêm gió bấc rít hơi thuốc lào  
"Trăm hoa" dễ được hoa nào
Về xem bướm hoá thi hào vườn dâu
Về xem cái kén mọc đầu
Ruột gan rút hết từng câu nhân tình
Tài cao đẩy thấp phận mình
Vỉa nồi niêu vẫn còn kinh hề mồi
Thơ không thể đổ vào nồi
Ngắm mình trong "nước giếng thơi" hết hồn   "
Đêm sao sáng" cạn hoàng hôn
Bút đào huyệt giấy mà chôn mình dần
Một đoàn bươm bướm đưa chân
Hai hàng lục bát khiêng phần mộ thơ...
* * * 
 Hà Nội vắng em  
           Tế Hanh 
Thế là Hà Nội vắng em
Anh theo các phố đi tìm ngày qua
Phố này bên cạnh vườn hoa
Nhớ khi đón gió, quen mà chưa thân
Phố này đêm ấy có trăng
Cùng đi một quãng nói bằng lặng im
Phố này anh đến tìm em
Người qua lại tưởng anh tìm bóng cây
Anh theo các phố đó đây
Thêm yêu Hà Nội vắng đầy cả em.
* * *
Khẩn cầu  
Trần Ninh Hồ 
Nhớ Bùi Giáng 
Đâu vờ giận, đâu vờ thương
Còn suất điên thật xin nhường cho ta
Ta về trong cỏ làm hoa
Rồi đem hoàng hạc với gà nuôi chơi 
* * * 
Hư vô  
Quang Huy  
Cái gì cũng có một thời
Bao nhiêu máu chảy trong lời vua ban  
Cái gì rồi cũng tiêu tan
Bao nhiêu xương trắng nằm oan dưới mồ  
Cái gì rồi cũng hư vô
Bao nhiêu tượng gỗ lên chùa ngồi chơi  
Cái gì rồi cũng rụng rơi
Qủa trên Vườn Cấm, hoa nơi Địa Đàng  
Chỉ còn mãi với thời gian
Tình yêu tự thuở hồng hoang dại khờ  
Gắng ngồi viết cạn bài thơ
Bài thơ rồi có hư vô như mình? 
 * * * 
 Câu thơ ngày về  
Trương Nam Hương
 Ước mang được chút nắng về
Thường khi cứ tết là quê mưa dầm
Mệt nhoài cơm áo quanh năm
Hiếm hoi có một đêm nằm với quê  
Gối đầu sóng nước ta nghe
Sông côi cút tiếng hò khuya buồn buồn
Mẹ theo hương khói lên nguồn
Sau ta thăm thẳm cánh buồm lẻ loi 
Ruổi rong khắp bốn phương trời
Câu thơ hành khất theo người hành hương
Ta gom nhặt giữa đời thường
Nỗi đau của mẹ, nỗi buồn của cha 
Ngày về sau tháng năm xa
Trắng bàn tay, trắng dần qua mái đầu
Có gì để tặng quê đâu
Đời thơ bèo bọt dăm câu bọt bèo  
Cũ mèm vần điệu khi gieo
Thể như mẹ gánh cái nghèo kinh niên
Một thời mũi đạn làn tên
Mấy thời giông bão tràn lên đất này  
Thức cùng quê một đêm nay
Rồi mai lại tính từng ngày cách xa
Bao giờ cơm áo buông tha
Câu thơ thay được đời ta. Bao giờ... 
* * * 
 Mẹ ốm  
Trần Đăng Khoa  
 Mọi hôm mẹ thích vui chơi
Hôm nay mẹ chẳng nói cười được đâu
Lá trầu khô giữa cơi trầu
Truyện Kiều gấp lại trên đầu bấy nay
Cánh màn khép lỏng cả ngày
Ruộng vườn vắng mẹ cuốc cày sớm trưa
Nắng mưa từ những ngày xưa
Lặn trong đời mẹ đến giờ chưa tan
Khắp người đau buốt, nóng ran
Mẹ ơi! Cô bác xóm làng đến thăm
Người cho trứng, người cho cam
Và anh y sĩ đã mang thuốc vào
Sáng nay trời đổ mưa rào
Nắng trong trái chín ngọt ngào bay hương
Cả đời đi gió đi sương
Bây giờ mẹ lại lần giường tập đi
Mẹ vui, con có quản gì
Ngâm thơ kể chuyện rồi thì múa ca
Rồi con diễn kịch giữa nhà
Một mình con sắm cả ba vai chèo
Vì con, mẹ khổ đủ điều
Quanh đôi mắt mẹ đã nhiều nếp nhăn
Con mong mẹ khỏe dần dần
Ngày ăn ngon miệng, đêm nằm ngủ say
Rồi ra đọc sách, cấy cày
Mẹ là đất nước, tháng ngày của con.  
1969 
 * * *
   Từ những vết chân người   
             Đinh Nam Khương
  
Tôi về thăm lại làng xưa
Tóc đà sợi nắng sợi mưa trên đầu
Giếng đình trong vắt thẳm sâu
Rối bời một khúc dây gầu trên tay 
* * * 
 Không đề I  Mai Linh 
Thôi thì... em cứ mùa xuân
cứ mưa bụi, cứ lúc gần lúc xa
thôi thì em cứ đào hoa
hoa đào phai áo lắm tà mỏng manh
Thôi, em... sương khói dâng thành
hôn lên cỏ ngọt cho lành vết đau
hôn lên sỏi đá buồn rầu
cái chiều năm ấy... để đâu quên rồi  
Người đà xấp xỉ bốn mươi
ngẩn ngơ rơi lá, ngẩn người... rơi xuân
hồng xác pháo dưới gót chân
quay về nhan sắc có gần không em?
Giao thừa có phải là Đêm
mà sao trắng muốt cả miền chiêm bao
        Ất Hợi, 1995 
* * * 
 Tiếng sáo thiên thai  
           Thế Lữ  
Tặng Ngô Bích San 
Ánh xuân lướt cỏ xuân tươi,
Bên rừng thổi sáo một hai Kim Đồng.
Tiếng đưa hiu hắt bên lòng,
Buồn ơi! xa vắng, mênh mông là buồn...
Tiên Nga tóc xõa bên nguồn.
Hàng tùng rủ rỉ trên cồn đìu hiu;
Mây hồng ngừng lại sau đèo,
Mình cây nắng nhuộm, bóng chiều không đi.
Trời cao, xanh ngắt.  Ô kìa
Hai con hạc trắng bay về Bồng lai.
Theo chim, tiếng sáo lên khơi,
Lại theo giòng suối bên người Tiên Nga.
Khi cao, vút tận mây mờ,
Khi gần, vắt vẻo bên bờ cây xanh,
Êm như lọt tiếng tơ tình,
Đẹp như Ngọc Nữ uốn mình trong không,
Thiên Thai thoảng gió mơ mòng,
Ngọc Chân buồn tưởng tiếng lòng xa bay...
* * *  
Mưa  
Nguyễn Ngọc Ly 
Trời mưa bong bóng phập phồng M
ẹ đi lấy chồng con ở với ai
 (Ca dao) 
Ấy là tôi nói ngày xưa
Mẹ tôi tái giá - đò dưa theo dòng
Không mưa cũng thể phập phồng
Lừa tôi ngõ trước, mẹ vòng lối sau.
Ấy là tôi nói ca dao
Con chuồn chuồn ớt đậu vào đời tôi
Bà đừng ru nữa bà ơi
Vít thêm ngọn nắng mồng tơi giậu nhà.  
Ấy là tôi nói áo hoa
Mẹ mua cho tết tỉnh xa gửi về
Dì tôi dỗ: áo của dì
Để cho tôi mặc, không thì tôi không.  
Ghét lây bảy sắc cầu vồng
Giá như biết chặn lối vòng cơn mưa.
* * *
  Bờ sông vẫn gió  
Trúc Thông  
 Lá ngô lay ở bờ sông
Bờ sông vẫn gió người không thấy về
Xin người hãy trở về quê
Một lần cuối... một lần về cuối thôi
Về thương lại bến sông trôi
Về buồn lại đã một đời tóc xanh
Lệ xin giọt cuối để dành
Trên phần mộ mẹ nương hình bóng cha
Cây cau cũ, giại hiên nhà
Còn nghe gió thổi sông xa một lần
Con xin ngắn lại đường gần
Một lần... rồi mẹ hãy dần dần đi.  
 * * *
       
Với Huế   
Nguyễn Hữu Quý 
Có chi say vậy Huế ơi
trăm năm còn đó những lời rêu phong
Cố đô chẳng khuất má hồng
Long-Ly-Quy-Phượng bên vòng tay thơm.
Tìm về Vỹ Dạ khói sương
hồn thơ lá trúc còn vương đến giờ
Huế thơ, em cũng là thơ
cái tà áo tím hóa bờ Hương nghiêng.
Dìu nhau lên tới đỉnh thiêng
nửa xanh vi vút, nửa đền đài bay
e rồi mình cũng gió mây
tan trong cõi tím của ngày hư vô.
Ơ này lá cũng nam-mô
chắp tay thành búp sen hồ Tịnh Tâm
nét hương cũng Huế thâm trầm
trách chi hoa trắng tôi nhầm ngày xưa.
Cầu Trời chầm chậm cơn mưa
để tôi cưới Huế thuở chưa có chồng...
* * * 
 Đào phai  Nguyễn Trọng Tạo 
Hoa đào vương kiếp đào hoa
thắm tươi một thuở phôi pha một ngày
tôi nhìn từng cánh đào bay
thời gian lõa thể rụng đầy chiêm bao

Giật mình tôi gọi ơi đào
giang tay níu lại thuở nào thắm tươi
nhưng nàng đã chẳng nghe lời
lặng im trút xuống quanh tôi phai tàn.
1992 
* * * 
Trông ra bờ ruộng  
        Hữu Thỉnh  
rông ra bờ ruộng năm nào
Mưa bay trắng cỏ, cào cào cánh sen
Mẹ tôi nón lá bước lên
Mạ non đầu hạ trăng liềm cuối thu

Quanh quanh vẫn một mảnh bờ
Bấy nhiêu toan tính đến giờ chưa yên
Mẹ tôi gạt cỏ bước lên
Cỏ dày, cây lúa phải chen nhọc nhằn

Xòe tay tính tháng tính năm
Tính người? Nào biết xa xăm cõi người
Gié thơm ai đã gặt rồi
Đồng quang bóng mẹ nắng nôi một mình...
* * * 
 Uống rượu với Tản Đà  
         Trần Huyền Trân  
Cụ hâm rượu nữa đi thôi
Be này chừng sắp cạn rồi còn đâu
Rồi lên ta uống với nhau
Rót đau lòng ấy vào đau lòng này
Tôi say? Thưa, trẻ chưa đầy
Cái đau nhân thế thì say nỗi gì?
Đường xa ư cụ?
Quản chi
Đi gần hạnh phúc là đi xa đường
Tôi là nắng - Cụ là sương
Tôi bừng dậy sớm, cụ nương bóng chiều
Gió mưa tóc cụ đã nhiều
Lòng còn gánh nặng bao nhiêu khối tình
Huống tôi mái tóc đang xanh
Vâng, tôi trăm thác ngàn ghềnh còn đi
Với đời một thoáng say mê
Còn hơn đi chán về chê suông đời
Rót đi cụ rót đi thôi
Rót cho tôi cả mấy mươi tuổi đầu
Nguồn đau cứ rót cho nhau
Lời say sưa mới là câu chân tình.
Ngã Tư Sở, 1938 
* * * 
Lời thề cỏ may  
          Phạm Công Trứ 
 Làm sao quên được tuổi thơ
Tuổi vàng, tuổi ngọc - tôi ngờ lời ai

Thuở ấy tôi mới lên mười
Còn em lên bảy, theo tôi cả ngày
Quần em dệt kín bông may
Áo tôi đứt cúc, mực dây tím bầm
Tuổi thơ chân đất đầu trần
Từ trong lấm láp em thầm lớn lên
Bây giờ xinh đẹp là em
Em ra thành phố dần quên một thời
Về quê ăn Tết vừa rồi
Em tôi áo chẽn, em tôi quần bò
Gặp tôi, em hỏi hững hờ
"Anh chưa lấy vợ, còn chờ đợi ai ?"
Em đi để lại chuỗi cười
Trong tôi vỡ ... một khoảng trời pha lê

Trăng vàng đêm ấy, bờ đê
Có người ngồi gỡ lời thề cỏ may ...
 * * * 
Thiếu nữ  
         Bùi Chí Vinh 
 Cô gái ơi, anh nhớ em!!!
Như con nít nhớ cà rem vậy mà
Như con dế trống đi xa
Một hôm chợt nhớ quê nhà, gáy chơi
Con dế nó gáy một hơi
Còn anh gáy hết một thời con trai
Tiếng gáy bò lên lỗ tai
Làm em nhột suốt một ngày một đêm
Cô gái ơi, anh nhớ em!!!
Như má lúm nhớ đồng tiền đúng chưa?
Như cà chớn nhớ cà chua
Như da em nhớ "da-ua" ngọt ngào
Cái nhớ nhảy qua hàng rào
Không thèm đăng ký cứ nhào vô anh
Xô ra thì thấy không đành
Nên anh ôm lấy, ngồi canh giữ hoài
Con kiến còn nhớ củ khoai
Huống chi tóc ngắn tóc dài nhớ nhau
Nhớ nhau không biết để đâu
Nếu để trên đầu thì tóc che đi
Để trong túi áo cũng kỳ
Lỡ đi đường rớt, lấy gì chứng minh
Chi bằng giả bộ làm thinh
Hét lên "nhớ quá" một mình nghe chơi!
 * * * 
 Sông lấp  
     Trần Tế Xương 
 Sông kia rày đã nên đồng
Chỗ làm nhà cửa chỗ trồng ngô khoai.
Vẳng nghe tiếng ếch bên tai
Giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò.
Nguồn: hoinhavanvietnam.vn

 Đăng ngày 09/11/2008
Ý kiến về bài viết
  Gửi bởi: Môn Sinh - 09/11/2008

Phải nói là tiếng lòng ngân nga dưới hồn đan tộc ! Đọc nhừng bài lục bát này tôi hoang mang cho thơ" hậu hiện đại:,thơ cách tân ngày nay !
  Gửi bởi: Lê Bá Dương - 11/11/2008

Cám ơn tác giả Chu Văn Sơn đã dẫn và giới thiệu những bài lục bát  đúng  như lục bát.
Lâu nay cứ phải đọc trệu trạo nhiều bài gọi là lục bát mà chẳng thấy bát vào với lục chút nào.
Mỗi lần vậy, đành ngửa mặt  kêu:
Lục bát, là lục bát ơi
Bí câu, ép tự nên rơi mất vần

  Gửi bởi: Xuân Lợi - Giang châu quán - 14/11/2008

Xuân Lợi em Kính ơn Nhà văn Xuân Đức  đã tranh thủ ghé thăm 'nhà mới' Giang châu quán, Cám ơn chủ tịch hội Vn WEBLOGSQUANGTRI.COM có lời động viên, quán xin cố gắng tập tểnh xếp vần xếp chữ để sớm trở thành hội viên tự nguyện của TST. Chúc Nhà  Văn vui khoẻ tràn đầy sức viết như bài văn làm mẫu thập kỷ 70 cho toàn miền Bắc, sáng tác phong phú  đồ sộ như bây giờ! nôm na vài lời khái niệm, có gì chưa phải kính mong Nhà Văn đại xá cho con chiên mới !

Nhận xét

Chia sẻ cho bạn bè

Bài viết liên quan