Tác giả: Xuân Đức
( Xin xem từ kì trước: Điều gì là bất cập nhất trong mô hình tổ chức HNV...)
II- Những kiến nghị cải tổ về mô hình và cơ chế hoạt động của hội Nhà văn.
Những kiến nghị tôi nêu lên sau đây hoàn toàn không có gì là mới, nó rất thông thường đối với tất cả các tổ chức hội, loại hình tổ chức xã hội nghề nghiệp hay chính trị xã hội nghề nghiệp. Nhưng nó lại quá mới, thậm chí có thể có người cho rằng quá sốc đối với hội Nhà văn. Ví sao vậy? Là vì lâu nay hội ta đã đi quá xa tôn chỉ mục đích lập hội, khác lạ so với nhu cầu tự thân của một tổ chức nghề nghiệp và cũng sai lệch chủ trương tập họp lực lượng của Đảng ở các tổ chức hội.
1) Hội cần mở rộng tối đa lực lượng hội viên. Tất cả những ai đã, đang và còn tiếp tục sáng tác VH, đã có một số thành tựu được khẳng định trong công chúng ( chứ không phải được khẳng định của một nhóm người xét duyệt) đều có quyền được đứng trong tổ chức hội.Muốn thực hiện được điều này, điều quan trọng nhất chính là thay đổi ngay lập tức quan niệm coi Hội là chốn riêng của những con người nổi tiếng.( Mà sự thật cái gọi là nổi tiếng cũng do chính số ít trong Hội tự phong hoặc tự ngộ nhận mà thôi). Hội là nơi tập họp của tất cả những ai đang hành nghề, đơn giản vậy thôi. Nó cũng như Hội nhà báo, hội Nghệ sĩ sân khấu vậy...Còn để tôn vinh những người nổi tiếng hay những người có nhiều cống hiến cho nền văn học Việt Nam, hoặc muốn xếp đẳng cấp cho đội ngũ này, Hội cần kiến nghị với nhà nước để có các hình thức vinh danh, ví dụ như danh hiệu Nhà văn nhân dân, Nhà văn ưu tú...Tóm lại, khái niệm hội viên cần hiểu đúng với bản chất của nó là chứng chỉ để chỉ thành viên của một tổ chức tập hợp chứ không phải là một danh hiệu tôn vinh.
Không thể chấp nhận việc Đảng Nhà nước bỏ công sức ra lập nên một tổ chức nghề nghiệp với mục đích là tập hợp tất cả những ai đang làm nghề nhằm tạo nên một sức mạnh xã hội to lớn đống góp cho sự nghiệp phát triển đất nước, thì lại biến thành một tổ chức dành riêng cho những người tự cho mình có đẳng cấp cao trong văn đàn! Hãy nhìn qua phía Liên hiệp các hội Khoa học Kĩ thuật, Hội sử học v..v.. Chẳng ai lại như ta cả.Trong giới khoa học có vị là Viện sĩ, Bác học, Giáo sư, nhà khoa học đầu ngành, nhưng cũng rất nhiều người chỉ là những cán bộ nghiên cứu bình thường. Giới sử học cũng vậy. Tất cả họ đều được tập hợp vào tổ chức nghề nghiệp để giúp đỡ nhau cống hiến cho khoa học. Còn chuyện phân đẳng cấp thì đã có Nhà nước vinh danh bằng các học hàm, học vị và các hình thức tôn vinh khác.
Xin hãy đọc lại điều lệ của Hội ta do chính chúng ta soạn ra và biểu quyết xem có tiêu chuẩn nào quy định phải là Nhà văn mức ưu tú mới được vào hội? Không có. Ngay tổ chức Đảng được coi là tổ chức cao nhất, có quy trình xem xét kết nạp khó khăn nhất, vì điều lệ Đảng quy định Đảng viên phải là những người ưu tú nhất trong quần chúng. Nhưng ưu tú là ưu tú so với quần chúng chứ không phải ưu tú so với nội bộ Đảng. Trong nội bộ Đảng, tầng lấp ưu tú nhất sẽ được bầu vào BCH TW hoặc bổ nhiệm các chức danh lãnh đạo đất nước. Còn đảng viên bình thường có thể chỉ làm người vệ sinh môi trường, lái xe hay gác cổng. Tổ chức Đảng mà thế, sao tổ chức nghề nghiệp nhà văn lại nhiêu khê đến vậy?
Nói đến đây chắc sẽ có người kêu lên, chết cha, nếu thế này rồi đây có lẽ cả nước có tới mấy ngàn nhà văn, thật nguy khốn!!! Có gì mà nguy nhỉ? Dân tộc ta vốn dĩ là dân tộc của thi ca nhạc hoạ, nếu cả dân tộc đều làm thơ thì cũng rất vui, có hại ai đâu. Cả dân tộc làm thơ nhưng chẳng vì thế mà bỏ cuốc cày, buông tay súng. Chẳng phải chúng ta có Nguyễn Trãi, Hồ Chí Minh, Sống Hồng, Xuân Thuỷ, vừa là nhà chính trị xuất sắc vừa làm thơ? Còn nếu nói hội viên Hội Nhà văn phải là nhà văn chuyên nghiệp hiểu theo nghĩa không làm việc gì khác, chỉ làm và sống bằng nghề viết văn thì thử hỏi hiện tại trong số trên 800 hội viên Hội Nhà văn hiện nay được mấy người chuyên nghiệp đúng theo nghĩa ấy? Lại còn vấn đề này nữa. Lâu nay có cái bệnh sĩ, những ai được kết nạp vào hội Nhà văn thì mới tự coi mình là Nhà văn. Chúng ta đã hoà đồng khái niệm Hội viên với danh xưng Nhà văn. Trên thực tế, những người cầm bút khác họ không chịu thừa nhận điều đó. Hiện tại tất cả các tác giả văn học ở các hội địa phương đều được giới thiệu là Nhà văn. Chẳng có gì sai hết. Bác Hồ có vào hội đâu mà ta vẫn tôn vinh là Nhà thơ. Rồi những Tú Xương, Nguyễn Khuyến nữa, họ có đáng được gọi là Nhà thơ không? Nói ngay trong thế hệ chúng ta, nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn tình nguyện ra khỏi Hội Nhà văn nhưng ai dám tước đi danh xưng Nhà văn của cây bút tài hoa này. Như vậy rõ ràng việc khống chế kết nạp hội viên không hề làm giảm đi số lượng được gọi là Nhà văn trong toàn xã hội. Sáng tạo văn chương và hành nghề văn chương là quyền tự do của tất cả mọi người. Thực trạng trên đã vô tình đẻ ra khái niệm Nhà văn Trung ương và Nhà văn địa phương. Đôi lúc tôi tự hỏi, nhà văn Trung ương là nghĩa thế nào nhỉ? Nó vừa bi, vừa hài thậm chí có thể nói là lố bịch nữa.
2) Cần trở lại đúng mô hình phổ biến của các tổ chức hội, đoàn trong xã hội.
Đến đây sẽ có người cật vấn, Hội mà đông đến như thế thì sẽ sinh hoạt thế nào, đại hội thế nào, chia bo tài trợ thế nào? Câu hỏi này nó chỉ đúng với cái thực tế hiểu sai, làm sai lâu nay chứ hoàn toàn xa lạ với các cách thức hoạt động của các tổ chức hội thông thường khác.
Hoạt động của một tổ chức hội, đoàn quan trọng nhất và chủ yếu nhất chính là ở các tổ chức cơ sở. Bất cứ Hội nào thì việc lãnh đạo, chỉ đạo các tổ chức cơ sở hoạt động có hiệu quả chính là nhiệm vụ sống còn của Hội đó.
Vì vậy, việc làm có tính cấp bách nhất mà cũng là then chốt nhất của nhiệm kì mới Hội Nhà văn là thành lập, kiện toàn và đưa vào điều lệ quy chế hoạt động các tổ chức cơ sở của Hội.
Rút kinh nghiệm những năm qua, mà cũng thuận theo cơ chế chung của xã hội, cần bỏ ngay hình thức Liên chi hội khu vực, tập trung hình thành và củng cố Chi hội cấp tỉnh. Liên chi hội khu vực là thứ chân không dính đất, đầu không dính trời, là thứ con hoang không nơi nương tựa. Hiện tại rất nhiều tỉnh, thành phố đã có Chi hội Nhà văn Việt Nam. Ở những nới chưa có vì chưa đủ số lượng hội viên ( do quan niệm kết nạp trước đây) thì nay cần khẩn trương phát triển hội viên theo quan niệm mới như đã nói ở trên. Ví dụ ở Quảng Trị, hiện tại chỉ mới 3 hội viên, nhưng nếu quan niệm hội là tổ chức tập họp những người có nghề và đang làm nghề thì có thể có ngay vài chục hội viên hoàn toàn xứng đáng.
Điều lệ Hội Nhà văn cần sửa đổi trong đó quy định về quyền hạn, trách nhiệm cũng như quy chế hoạt động của tổ chức cơ sở. Khi các tổ chức cơ sở của Hội mạnh, hoạt động theo một điều lệ thống nhất thì Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam chỉ là người đại diện cho tất cả các tổ chức Hội cơ sở. Có thể cơ cấu người đứng đầu các Chi hội, hoặc một số lượng Chi hội cơ sở nào đó vào BCH. Đương nhiên cần bầu thêm một số Uỷ viên thường trực để điều hành chung toàn hội. Nếu mô hình tổ chức được sửa theo hướng đó, tôi tin chắc sẽ không bao giờ có chuyện Đại hội chỉ bầu được 4-5 uỷ viên BCH. Và việc tổ chức Đại hội đại biểu gần như là chuyện đương nhiên không đến mức gấy nên sự bức xúc như hiện nay.
3) Từ việc thay đổi quan niệm về Hội viên đến thay đổi mô hình tổ chức Hội, đương nhiên phải thay đổi cách thức điều hành khoản ngân sách do Nhà nước tài trợ. Lâu nay, khoản ngân sách này cũng được BCH hỗ trợ một phần cho các Nhà văn ( thông qua tiền đầu tư, mở trại sáng tác, hội thảo nghiệp vụ, giải thưởngv..v..) Tuy nhiên, nó vẫn chỉ quanh quẩn ở một số lượng nào đó có điều kiện. Đặc biệt những hoạt động lớn, tiêu biểu, tốn một lượng ngân sách lớn thì cũng chỉ những nhà văn ở chốn cung đình hoặc loanh quanh gần đó biết đến. Khoảng 2/3 hội viên ở vùng sâu, vùng xa hoàn toàn là kẻ ngoài cuộc. Một thí dụ rõ ràng nhất chính là việc tổ chức Hội nghị Quốc tê quảng bá Văn học VN hay tổ chức Ngày thơ Việt Nam.
Khi có được mô hình và quy chế hoạt động mới, BCH cần có sự tính toán hỗ trợ đảm bảo cho các tổ chức cơ sở có thể hoạt động được.
4) Kiến nghị cuối cùng là chuyện vượt ra ngoài khuôn khổ của Đại hội Hội Nhà văn, nhưng vì có liên quan nên tôi cũng nói luôn. Đó chính là nên cải tổ lại mô hình tổ chức của các Hội VN địa phương. Chuyện này đã không ít lần được xáo xới lên bàn luận nhưng chưa có hồi kết. Nhân đang nói đến tổ chức cơ sở Hội Nhà văn tại các tỉnh, tôi thấy rằng việc có mặt của một tổ chức hội cơ sở gắn với địa phương, chịu sự lãnh đạo của một địa phương cụ thể là cần thiết. Nếu không có sự lãnh đạo và đi kèm theo đó là sự hỗ trợ, tạo điều kiện hoạt động thì tổ chức đó sẽ rơi vào tình trạng bình chân không như kiểu các Liên chi hội trước đây. Tuy nhiên, nếu tất cả các hội chuyên ngành Trung ương đều có tổ chức cơ sở, mà muốn hoạt động thì lại phải có cơ quan, có kinh phí, có phương tiện, có người thường trực, vậy là đẻ ra bao nhiêu chuyện. Trong lúc đó tại các địa phương lại có một Hội Liên hiệp VHNT, cũng đầy đủ các chuyên ngành. Thế rồi đẻ ra mô hình, tổ chức trong tổ chức. Chi hội Nhà văn cùng nằm trong Phân hội Văn học. Chi hội Mỹ thuật TW lẫn trong phân hội Mỹ thuật của tỉnh...Hoặc ở các thành phố lớn hiện tồn tại mô hình: Chi hội Nhà văn Việt Nam bên cạnh Hội Nhà văn thành phố v..v..Từ đó mới có chuyện Hội viên trung ương nằm trong hội viên địa phương, nhà văn TW bên cạnh Nhà văn địa phương...
Theo cá nhân tôi, nếu tất cả các hội chuyên ngành TW đều thay đổi quan niệm về tổ chức mình theo tư duy như tôi đã trình bày thì vẫn tồn tại Hội Liên hiệp VHNT địa phương nhưng không không có hội viên địa phương nữa, mà là Liên hiệp các tổ chức cơ sở của các Hội chuyên ngành TW trên địa bàn. Đó chính là cánh tay nối dài ( hoặc là sự phân cấp quản lý) của Uỷ ban toàn quốc các Hội VHNT VN tới các địa phương. Nếu mô hình này được thực hiện sẽ không có sự xáo trộn, hững hụt gì ở các địa phương, nguồn ngân sách của địa phương tại trợ cho Hội địa phương vẫn như cũ, cơ quan, phương tiện vẫn như cũ, nhưng tất cả sẽ được khơi thông nguồn chảy, tránh được sự chồng chéo nhiều lúc đến vô lí ở các địa phương hiện nay.
III- Thay lời kết
Trong một bút kí đăng trên tạp chí Cửa Việt và báo Văn nghệ, nhà văn tài hoa Đỗ Chu có bịa ra một câu chuyện đượm chất ngụ ngôn, đại ý như sau. Có một vị Hoàng đế muốn làm vui chốn cung đình nên ban bố chiếu chỉ tập họp một giàn nhạc hoà tấu. Suốt hàng tháng trời, không biết cơ man nào là nhạc công xếp hàng trước cửa Ngọ môn để được gọi vào dàn nhạc tập thể. Số lượng ngày một nhiều thêm và xem chừng không thể kết thúc. Nhưng rồi vị Hoàng đế ấy đột ngột băng hà, vị vua kế vị lại phát ra một mệnh lệnh ngược lại, chỉ tuyển chọn nhạc công solo, không chấp nhận giàn nhạc tập thể. Thế là dòng người xếp hàng trước cửa bỗng vơi dần, vơi dần và biến hết. Để nhấn thêm thâm ý của mình, Đỗ Chu bất ngờ buông ra câu hỏi: Giả sử đến một ngày nào đó, Hội Nhà văn ta cũng ban ra một lệnh như vậy thì tình hình sẽ ra sao?
Câu chuyện thật hóm hỉnh và thâm thuý. Tuy nhiên, nó chỉ hay và sâu xa khi cái quan niệm Hội NV là chốn cung đình của tầng lớp Hoàng tộc, cái quan niệm đã đẻ ra do nhu cầu lịch sử những năm mà người cầm bút chỉ lác đác như sao buổi sớm, những năm mà quanh đi quẩn lại chỉ thấy vào ra ở ngôi nhà 65 Nguyên Du kia chỉ có Nguyễn Tuân, Nguyễn Công Hoan, Nguyễn Đình Thi, Nguyên Hồng...và vài ba người nữa. Cái khung cảnh đó khiến bao nhiêu kẻ trẻ thơ như chúng tôi dài cổ trông vào, thèm thuồng đến rõ dãi..
Không gian văn học ngày nay khác lắm rồi. Đội ngũ sáng tác và hoạt động văn học đã nở rộ mênh mang thì cái cách nghĩ cũ, cách nghĩ của vài người tự cho mình thuộc đẳng cấp đặc biệt, Hội Nhà văn là chốn cung đình đặc biệt, và cái danh Hội viên như là chứng chỉ Trạng nguyên văn chương xem ra không thể phù hợp nữa. Quá khứ không có gì sai. Trong quá khứ, Đảng cần lập ra Hội để tập họp lực lượng xây dựng nền văn học. Muốn lập Hội thì phải đi tìm, phải đãi cát tìm vàng, mà vàng thời đó quá hiếm. Cả nước chỉ tìm thấy vài chục người thì mặc nhiên họ là của quý, của sang được xã hội tôn vinh, ngưỡng vọng. Nhưng cho đến bây giờ mấy trăm con người may mắn được lọt vào chốn cung đình kia lại vẫn tự coi mình là kẻ sang, kẻ trên so với nhiều trăm người khác chưa lọt vào được thì thật là lố.Vì vậy, thưa nhà văn Đỗ Chu, theo tôi cái giả sử mà nhà văn đưa ra chính là vết sẹo của cách nghĩ đã làm sai lệch tính chất tập họp của hội. Đảng và Nhà nước cũng rất cần chọn ra những nhạc công solo, nhưng là ở cơ chế khác, chính sách và mô hình khác chứ không thể biến chức năng một hội nghề nghiệp thành trường thi và nơi phong cấp hàm trạng nguyên văn chương.
Câu chuyện thật hóm hỉnh và thâm thuý. Tuy nhiên, nó chỉ hay và sâu xa khi cái quan niệm Hội NV là chốn cung đình của tầng lớp Hoàng tộc, cái quan niệm đã đẻ ra do nhu cầu lịch sử những năm mà người cầm bút chỉ lác đác như sao buổi sớm, những năm mà quanh đi quẩn lại chỉ thấy vào ra ở ngôi nhà 65 Nguyên Du kia chỉ có Nguyễn Tuân, Nguyễn Công Hoan, Nguyễn Đình Thi, Nguyên Hồng...và vài ba người nữa. Cái khung cảnh đó khiến bao nhiêu kẻ trẻ thơ như chúng tôi dài cổ trông vào, thèm thuồng đến rõ dãi..
Không gian văn học ngày nay khác lắm rồi. Đội ngũ sáng tác và hoạt động văn học đã nở rộ mênh mang thì cái cách nghĩ cũ, cách nghĩ của vài người tự cho mình thuộc đẳng cấp đặc biệt, Hội Nhà văn là chốn cung đình đặc biệt, và cái danh Hội viên như là chứng chỉ Trạng nguyên văn chương xem ra không thể phù hợp nữa. Quá khứ không có gì sai. Trong quá khứ, Đảng cần lập ra Hội để tập họp lực lượng xây dựng nền văn học. Muốn lập Hội thì phải đi tìm, phải đãi cát tìm vàng, mà vàng thời đó quá hiếm. Cả nước chỉ tìm thấy vài chục người thì mặc nhiên họ là của quý, của sang được xã hội tôn vinh, ngưỡng vọng. Nhưng cho đến bây giờ mấy trăm con người may mắn được lọt vào chốn cung đình kia lại vẫn tự coi mình là kẻ sang, kẻ trên so với nhiều trăm người khác chưa lọt vào được thì thật là lố.Vì vậy, thưa nhà văn Đỗ Chu, theo tôi cái giả sử mà nhà văn đưa ra chính là vết sẹo của cách nghĩ đã làm sai lệch tính chất tập họp của hội. Đảng và Nhà nước cũng rất cần chọn ra những nhạc công solo, nhưng là ở cơ chế khác, chính sách và mô hình khác chứ không thể biến chức năng một hội nghề nghiệp thành trường thi và nơi phong cấp hàm trạng nguyên văn chương.
Đăng ngày 03/03/2010
|